Sẽ bỏ cơ chế giá FIT ưu đãi trong 20 năm với điện mặt trời áp mái

Lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, tới đây, chính sách mới cho điện mặt trời áp mái sẽ thay đổi, trong đó sẽ không còn cơ chế giá FIT (giá ưu đãi cố định).

Không còn cơ chế giá FIT cho điện mặt trời áp mái

Đó là phát biểu của ông Phạm Nguyên Hùng – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) – tại toạ đàm “Điện mặt trời mái nhà khu công nghiệp: Tháo gỡ những bất cập trong triển khai lắp đặt” diễn ra chiều ngày (30.8).

Trong vài năm qua, rất nhiều doanh nghiệp đã sử dụng điện mặt trời mái nhà trong hoạt động kinh doanh sản xuất, nhằm giảm chi phí sử dụng điện, cũng như góp phần tạo lợi thế về xuất khẩu và bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, doanh nghiệp có nhu cầu được lắp đặt, sử dụng điện mặt trời mái nhà đang gặp nhiều vướng mắc khi triển khai mô hình này, đặc biệt là nhà đầu tư trong các khu công nghiệp.

Ông Phạm Nguyên Hùng – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo – cho biết, việc đầu tư điện áp mái nếu đấu nối vào lưới điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì phải có thoả thuận.

Về các chính sách thúc đẩy phát triển điện mặt trời áp mái trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ nghiên cứu và tận dụng tối đa hạ tầng lắp đặt điện mặt trời áp mái và phù hợp với nhu cầu sử dụng tại chỗ.

Phần chênh lệch đó có thể bán cho lưới điện thì phần giá điện, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục nghiên cứu làm sao có cơ chế để tận dụng tốt, hài hoà với việc mua điện của EVN hoặc đơn vị khác. Tránh tình trạng lợi dụng chính sách, làm rõ và khích lệ cho các nhà đầu tư khai thác tốt trên hạ tầng có sẵn.

Toạ đàm “Điện mặt trời mái nhà khu công nghiệp: Tháo gỡ những bất cập trong triển khai lắp đặt” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp và GreenID tổ chức. Ảnh: VCCI

Theo ông Hùng, Bộ Công Thương cũng đang soạn thảo dự thảo quyết định cơ chế phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời áp mái.

Theo ông Hùng, trong thời gian tới khi xây dựng dự thảo sẽ không còn giá FIT ưu đãi trong 20 năm như trước đây. Thay vào đó, dự thảo đưa ra tỉ lệ tự dùng tại chỗ của các dự án 70-90%, nhằm giảm áp lực đầu tư lên lưới điện, truyền tải và phân phối.

Ngoài tỉ lệ tự dùng, phần điện còn lại (10-30%), doanh nghiệp sẽ bán lại cho EVN. Giá bán điện sẽ theo khung giá phát điện mặt trời hàng năm do Bộ Công Thương ban hành, nhằm đảm bảo sát thị trường.

“Giá bán sẽ không cố định và nếu có sẽ cho bán điện dư với giá bán theo khung giá khác. Chúng tôi đang nghiên cứu khung giá này và Bộ Công Thương sẽ ban hành khung giá hàng năm. Chúng tôi sẽ không đi theo cơ chế bù trừ trong năm” – ông Hùng khẳng định.

Bà Nguỵ Như Khanh – Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh – cho rằng, không thể kỳ vọng kéo dài mãi giá FIT, nhưng chính sách mới cần hướng tới việc thúc đẩy thị trường. Nếu chọn đây là loại hình năng lượng cần phát triển, chính sách đưa ra cần nhất quán, lâu dài và tránh liên tục thay đổi, để tạo niềm tin, thu hút nguồn lực của cho nhà đầu tư.

Chưa có chính sách mua điện với các dự án điện mặt trời áp mái sử dụng cho các khu công nghiệp

Việc cấp phép đấu nối với dự án điện mặt trời mái nhà như thế nào? Ông Nguyễn Quốc Dũng – Trưởng Ban Kinh doanh EVN – cho hay, Chính phủ chưa có chính sách mua điện với các dự án điện mặt trời áp mái sử dụng cho các khu công nghiệp nên EVN chưa biết trả tiền như thế nào

Do đó, đối với các khu công nghiệp đấu nối vào lưới thì sẽ có trường hợp chúng ta phát lên lưới. Với thời điểm công suất sử dụng thấp như hiện nay thì việc phát lên lưới sẽ gây nguy hiểm cho an ninh lưới điện. Còn nhà dân phát lên rất nhỏ nên mức độ ảnh hưởng không cao. Do đó, EVN vẫn đang chờ hướng dẫn.

“Nhu cầu năng lượng tăng rất cao, sức ép về năng lượng và an ninh năng lượng rất lớn. Việc phát triển năng lượng sạch năng lượng tái tạo là vô cùng quan trọng, giải quyết được nguồn năng lượng hiện nay, nâng cao sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

EVN luôn công khai minh bạch với các nhà đầu tư. Các thủ tục đều được hướng dẫn chi tiết đầy đủ và giải quyết nhanh chóng liên quan tới thoả thuận đấu nối. Tập đoàn sẵn sàng hỗ trợ những đấu nối cho các nhà đầu tư” – ông Dũng nói.

(Theo laodong.vn)

Công đoàn Đồng Nai hỗ trợ 230.000 đoàn viên lao động bị ảnh hưởng dịch bệnh

Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Như Ý trao quà, nhu yếu phẩm cho công nhân Công ty TNHH Emico, KCN Long Bình. Ảnh: Hà Anh Chiến

Dịch bệnh COVID-19 đã làm ảnh hưởng lớn đến đời sống, thu nhập của đoàn viên và người lao động (ĐV&NLĐ). LĐLĐ tỉnh Đồng Nai đã có nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ khẩn cấp cho ĐV&NLĐ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 để ĐV&NLĐ an tâm “ai ở đâu ở đấy”. Đến nay, các cấp công đoàn trong tỉnh đã chăm lo cho hơn 230.000 lượt ĐV&NLĐ với kinh phí chăm lo gần 82 tỉ đồng.

Lo nhu yếu phẩm để đoàn viên lao động “ai ở đâu ở đấy”

Bà Nguyễn Thị Như Ý – Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai cho biết: Tổng LĐLĐVN, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành nhiều hướng dẫn, chính sách quan trọng để công đoàn Đồng Nai kịp thời hỗ trợ khẩn cấp cho ĐV&NLĐ bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19. Các cấp công đoàn tỉnh Đồng Nai cũng đã và đang bám sát cơ sở, sát cánh ngày đêm chia sẻ đồng hành cùng ĐV&NLĐ.

Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Như Ý trao quà, nhu yếu phẩm cho công nhân Công ty TNHH Emico, KCN Long Bình. Ảnh: Hà Anh Chiến

Đến nay chương trình “Nghĩa tình Công đoàn” do LĐLĐ tỉnh Đồng Nai triển khai đã hỗ trợ nhu yếu phẩm (gạo, thịt, cá, rau củ…) cho trên 85.000 ĐV&NLĐ tại 45.000 phòng trọ trong các khu phong tỏa trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, các công đoàn cơ sở cũng đã chăm lo, hỗ trợ nhu yếu phẩm cho 150.000 lượt ĐV&NLĐ.

Các cấp công đoàn trong tỉnh Đồng Nai đã hỗ trợ cho ĐV&NLĐ với kinh phí chăm lo gần 82 tỉ đồng. Trong đó, LĐLĐ tỉnh đã hỗ trợ 15 tỉ đồng, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã hỗ trợ cho ĐV&NLĐ gần 24 tỉ đồng. Ngoài ra, các công đoàn cơ sở cũng đã hỗ trợ khoảng 43 tỉ đồng.

Nhiều trường hợp ĐV&NLĐ nhận được hỗ trợ đã xúc động không cầm được nước mắt. Ông Nguyễn Văn Lơ làm công nhân Công ty TNHH Emico, KCN Long Bình, (ở trọ tại phường Long Bình, TP.Biên Hoà) đã thất nghiệp mấy tháng nay vì dịch bệnh COVID-19, xúc động cho biết: “Vợ chồng tôi đã lớn tuổi, đi làm công nhân nhưng chẳng may gần đây vợ tôi lại bị tai nạn lao động gãy tay không làm việc được. Một mình tôi gồng gánh lo cho vợ cho con, ngoài việc ở công ty thì buổi tối tôi còn đi rửa chén bát thuê, nhưng đến nay dịch bệnh xảy ra tôi thất nghiệp, mỗi tháng chỉ lãnh được hơn 1 triệu đồng, cuộc sống thực sự khó khăn”.

“Do địa bàn tỉnh Đồng Nai rất rộng, lực lượng lao động đông, LĐLĐ tỉnh đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn không thể bao quát hết. Sẽ còn những khu nhà trọ công nhân mà sự giúp đỡ của tổ chức công đoàn chưa kịp thời đến. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đang tiếp tục huy động tất cả các cán bộ công đoàn làm việc không quản ngày đêm, cập nhật danh sách những nơi công nhân cần hỗ trợ để làm sao các chính sách cho người lao động cũng như việc cung cấp hỗ trợ nhu yếu phẩm cho công nhân được kịp thời” – bà Như Ý cho biết thêm.

Lo chính sách tốt nhất cho ĐV&NLĐ trong thời gian nghỉ chống dịch

Cán bộ LĐLĐ tỉnh Đồng Nai vận chuyển nhu yếu phẩm tới các khu nhà trọ cho công nhân. Ảnh: Hà Anh Chiến

Ngoài ra, công đoàn cấp cơ sở cũng đã có nhiều hoạt động chăm lo cho ĐV&NLĐ. Ông Đặng Tuấn Tú – Chủ tịch CĐCS Công ty TNHH Changshin Việt Nam (huyện Vĩnh Cửu) cho biết: “Mặc dù tình hình công ty rất khó khăn, công ty có gần 40.000 lao động, Ban chấp hành CĐCS Công ty chúng tôi cũng đã bàn bạc, thảo luận để cùng thương lượng với Ban giám đốc Công ty đưa ra nhiều chính sách có lợi nhất cho NLĐ. Theo đó, giữ được cho NLĐ mức lương ngừng việc tối thiểu là 170.000 đồng/ngày; Dịp 2.9 sắp tới dù doanh nghiệp rất khó khăn nhưng chúng tôi cũng vận động doanh nghiệp tiếp tục thưởng cho NLĐ để động viên tinh thần họ vượt qua dịch bệnh”.

Các tổ hỗ trợ COVID-19 trao quà cho công nhân trong khu vực bị cách ly, phong toả. Ảnh: Hà Anh Chiến

Còn tại CĐCS Công ty CP Taekwang Vina (KCN Biên Hoà 2) cũng đã phát động chương trình “Gửi trọn yêu thương” trao 2.000 phần quà để chăm lo cho ĐV&NLĐ khu vực bị cách ly, phong toả. “Chúng tôi mong muốn, trong hoàn cảnh khó khăn này, các ĐV&NLĐ luôn dành tình cảm yêu thương nhau để vượt qua đại dịch. Sau khi hết dịch, công nhân và công ty sẽ cùng nhau lao động sản xuất để phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn”, ông Đinh Sỹ Phúc – Chủ tịch CĐCS Công ty CP Taekwang Vina chia sẻ.

Theo thống kê, các CĐCS khối doanh nghiệp đã khẩn trương triển khai các gói hỗ trợ (tiền mặt, nhu yếu phẩm) cho NLĐ trên 140.000 công nhân lao động tại doanh nghiệp.

Niềm vui của công nhân khi nhận được sự hỗ trợ từ công đoàn cơ sở. Ảnh: Hà Anh Chiến

Hiện, tỉnh Đồng Nai có khoảng 1,3 triệu lao động. Trong đó, số đoàn viên công đoàn là hơn 700.000 người. Nhìn chung các doanh nghiệp đang nỗ lực thực hiện các giải pháp nhằm giữ chân ĐV&NLĐ bằng các giải pháp như: thoả thuận bố trí ngày nghỉ hàng năm, trả lương ngừng việc theo khoản 3 Điều 99 Bộ luật Lao động, thoả thuận tạm hoãn hợp đồng với NLĐ…. Các doanh nghiệp khi xây dựng các phương án sử dụng lao động đều được hướng dẫn theo phương án tối ưu nhất để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của NLĐ.

Tổng LĐLĐVN đã trao gói hỗ trợ 15 tỉ đồng gồm 100.000 suất quà trị giá 150.000 đồng/suất cho tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, Tổng LĐLĐVN cũng đã trao gói hỗ trợ 10 tỉ đồng hỗ trợ lực lượng y tế tuyến đầu tham gia phòng chống dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

(Theo laodong.vn)

Toàn cảnh ngành điện: Thủy điện gặp thời, nhiệt điện gặp khó, điện gió ‘lên ngôi’

(VNF) – Chi phí đầu tư năng lượng tái tạo vẫn trong xu thế giảm dài hạn, trong đó, chi phí trung bình của năng lượng điện gió trên bờ hiện đã thấp hơn điện mặt trời, thậm chí “đe dọa” cả thủy điện.

Toàn cảnh ngành điện: Thủy điện gặp thời, nhiệt điện gặp khó, điện gió ‘lên ngôi’

Thủy điện gặp thời

Các công ty thủy điện hầu hết đều có kết quả kinh doanh tốt trong 6 tháng đầu năm 2021 ở cả 3 miền do được hưởng lợi từ hiệu ứng La Nina diễn ra từ nửa sau năm 2020.

Theo thống kê của Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS), doanh thu của các công ty này đã tăng từ 20% đến 90%.

“Do đặc điểm ngành điện đều sử dụng đòn bẩy hoạt động cao nên doanh thu tăng sẽ dẫn tới lợi nhuận tăng nhanh hơn. Lợi nhuận các công ty chúng tôi thống kê tăng tới 27% cho đến 240% như S4A với mức tăng doanh thu chỉ 27% nhưng tăng lợi nhuận sau thuế tăng tới 240%. Hay DNH là một doanh nghiệp thủy điện có công suất khá lớn với 735 MW đã có mức tăng doanh thu tới 68,5% và lợi nhuận sau thuế lên tới 143% trong 6 tháng đầu năm 2021”, phía VCBS cho hay.

VCBS nhận định thủy điện tiếp tục sẽ nhận được lượng nước tốt do hưởng lợi từ La Nina từ mùa mưa năm nay.

Theo dự báo của trung tâm khí tượng thủy văn của Đại học Columbia (IRI), xác suất xảy ra La Nina từ tháng 9 đến tháng 11 đã đạt khoảng 50%. Nhiệt độ bề mặt biển phía Tây Thái Bình Dương hiện tại đang cao hơn trung bình khoảng hơn 1 – 2oC, khi gió Đông và gió Đông – Nam hoạt động sẽ kích hoạt cho việc hoạt động của các xoáy thuận nhiệt đới, gặp bề mặt biển nhiệt độ cao sẽ được tiếp thêm năng lượng tạo thành các áp thấp nhiệt đới và bão. Trung tuần tháng 7 đã xảy ra mưa liên tục tại Trung Quốc, Nhật Bản và đặc biệt là Trịnh Châu với lượng mưa gần 600 mm/ngày, gần bằng lượng mưa cả năm.

Đối với Việt Nam, La Nina năm nay dự báo sẽ mang lại lượng mưa gần tương đương như năm 2020 và bắt đầu mưa lớn/rất lớn từ tháng 8 với sử ảnh hưởng của các áp thấp nhiệt đới/bão tập trung vào khu vực phía Bắc, Bắc Trung Bộ và di chuyền dần vào Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ trong tháng 9 và tháng 10.

Do đó, các thủy điện khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ có thể sẽ tiếp tục có một năm có lượng nước cao để duy trì hoạt động cho tận mùa khô sang năm.

Thủy điện khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng sẽ chứng kiến một năm tốt hơn khi năm nay mưa sớm hơn cùng kỳ.

Tuy nhiên, VCBS cũng lưu ý thủy điện hầu như đã hết tiềm năng kỹ thuật nên chỉ thực hiện một số dự án đã có trong quy hoạch 7 mở rộng và sau đó hầu như không phát triển thêm.

Nhiệt điện gặp khó tạm thời

6 tháng đầu năm nay, các công ty nhiệt điện hầu hết đều cho thấy sụt giảm doanh thu, lợi nhuận.

Cụ thể, tổng doanh thu các doanh nghiệp nhiệt điện theo thống kê sụt giảm 25% so với cùng kỳ, trong đó sụt giảm mạnh nhất là PPC do nhà máy Phả Lại 1 đã cũ kỹ, chi phí hoạt động cao và được huy động điện ít khiến doanh thu giảm 48%, lợi nhuận sau thuế giảm 37% dù đã được bù đắp bởi doanh thu tài chính cao. Các công ty còn lại đều có mức doanh thu sụt giảm từ 10% đến 25% và lợi nhuận sau thuế giảm rất mạnh, lên tới 45% – 76%.

Chỉ có QTP mặc dù doanh thu sụt giảm 15% nhưng lợi nhuận sau thuế gấp 15 lần cùng kỳ, chủ yếu là do công ty tiến hành giãn khấu hao trong năm 2020 và giảm chi phí lãi vay.

VCBS cho biết nhiệt điện hồi phục lại một phần trong tháng 6, tháng 7 do nhu cầu sử dụng điện tăng nhất là trong những ngày nắng nóng và La Nina sẽ hoạt động thấp hơn nửa cuối năm 2020.

Tuy nhiên, VCBS cảnh báo đây vẫn là một năm không khả quan đối với các công ty nhiệt điện, nhất là các nhà máy nhiệt điện khí phía nam với giá đầu vào gia tăng và sản lượng điện thấp, giá bán thị trường lại không cao, cùng với đó là nhu cầu sụt giảm do phong tỏa bởi Covid 19.

Điểm sáng chủ yếu ở một số doanh nghiệp hết khấu hao, lãi vay và phân bổ chênh lệch tỷ giá như PGV, QTP…

Mặc dù gặp khó tạm thời nhưng VCBS nhấn mạnh nhiệt điện vẫn là nguồn rất quan trọng trong cơ cấu nguồn điện đặc biệt là an toàn lưới điện khi có thể chủ động huy động trong lúc cần thiết để tăng tính ổn định của nguồn điện. Hiện nay nhiệt điện đang chủ yếu là nguồn chạy nền chính. Đây sẽ là nguồn dự phòng chính trong tương lai. Chính vì vậy, trong dự thảo Quy hoạch điện 8 vẫn đề cao vai trò này và gia tăng công suất các nguồn nhiệt điện song song với các nguồn năng lượng tái tạo.

Trong đó, nhiệt điện than vẫn là nguồn quan trọng nhất của Việt Nam với sản lượng trung bình năm chiếm hơn 50%. Đây vẫn là một nguồn chính với khả năng cung cấp than trong nước khoảng 35 – 40 triệu tấn/năm (đáp ứng 40% – 45% nhu cầu), phần còn lại nhập khẩu. Nguồn than nhập khẩu khá dồi dào từ Indonesia, Australia, Nam Phi hay Nga. Trữ lượng than trên thế giới hiện tại có thể đáp ứng khai thác thêm hơn 130 năm nữa. Công suất nhiệt điện than theo Dự thảo Quy hoạch điện 8 có tốc độ tăng bình quân đạt 3,5%/năm trong giai đoạn 2020 – 2045.

Công suất phát điện giai đoạn 2016 – 2020 phân theo từng loại hình sản xuất điện. Nguồn: VCBS

Với nhiệt điện khí, nhiên liệu cung cấp cũng gặp trở ngại về sụt giảm nguồn cung như đối với than và có phần khắc nghiệt hơn. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn cực kỳ quan trọng trong hệ thống điện với đặc điểm là huy động nhanh và ổn định.

Với dự báo suy giảm nguồn khí, Quy hoạch điện 8 đã chuyển sang sử dụng nguồn LNG nhập khẩu với các nhà máy mới sử dụng LNG như Nhơn trạch 3&4, Trung tâm điện khí Sơn Mỹ, Cà Ná, Bạc Liêu, Long An…. Theo đó, vào năm 2045, nguồn điện khí sẽ có công suất cao nhất với 66.504 MW.

Tuy nhiên đây là nguồn nhiên liệu có giá cao, cần phải có các thiết bị, trung tâm hóa khí, kho chứa đặc biệt nên sẽ làm gia tăng giá thành sản xuất điện trong tương lai.

Điện gió ngày càng ‘hot’

Hiện rất ít các công ty năng lượng tái tạo niêm yết trên sàn, chỉ có một số công ty có hoạt động khác và phát triển thêm mảng năng lượng tái tạo như: ASM, HDG, LCG, GEG, TTA đều cho thấy mức doanh thu từ năng lượng tái tạo khá ổn định do giảm áp lực cắt giảm công suất.

Chi phí đầu tư năng lượng tái tạo vẫn trong xu thế giảm dài hạn mặc dù đã tăng trở lại trong 6 tháng đầu năm 2021. Chi phí trung bình của năng lượng điện gió trên bờ hiện đã thấp hơn điện mặt trời.

Trên thực tế, nhu cầu tăng mạnh về đầu tư năng lượng tái tạo trên thế giới đã thúc đẩy sản xuất, tăng cường cải tạo công nghệ sản xuất và tăng lợi ích kinh tế theo quy mô giúp cho chi phí đầu tư các loại hình năng lượng tái tạo ngày một giảm và có đủ khả năng cạnh tranh với các loại hình năng lượng khác.

Trong đó, trong giai đoạn từ 2010 – 2020 đã chứng kiến chi phí đầu tư trung bình cho điện mặt trời giảm mạnh nhất từ hơn 4.700 USD/kW xuống chỉ còn hơn 800 USD/kW (giảm hơn 80%), trở thành loại hình có mức đầu tư thấp nhất/kW công suất.

Điều này có được là do thị trường tiêu thụ tăng mạnh, các công ty đẩy mạnh sản xuất để giảm giá thành và hiệu suất trung bình của module quang điện cũng tăng lên từ khoảng 10% lên 16% -18% năm 2020, đặc biệt là hiệu suất chuyển đổi từ quang năng sang nhiệt năng cao nhất đã lên tới 25,25% trong đầu năm 2021.

Điện gió ngoài khơi và trên bờ cũng chứng kiến mức giảm chi phí đầu tư đang kể với lần lượt là 31,5% và 30,5% trong giai đoạn 2010 – 2020. Đồng thời, hiệu suất cũng được cải thiện khá lần lượt từ 38% lên 40 – 45% và nhất là điện gió trên bờ từ trung bình 27% lên tới 36% nhờ cải thiện công nghệ Rotor có thể hoạt động trong khung vận tốc gió rộng hơn giúp tăng công suất 1 turbine lên đáng kể ngoài việc tăng độ dài cánh và trụ.

Theo số liệu của IRENA, chi phí trung bình của năng lượng giảm mạnh nhất đối với điện mặt trời , từ 37,8 cent/kWh năm 2010 còn 5,7 cent/kWh tại thời điểm cuối năm 2020 (giảm 85%). Chi phí này của điện gió trên bờ đã giảm thấp hơn cả thủy điện trong năm 2021 với 3,9 cents/kWh so với 4,4 cents/kWh. Chi phí của điện gió ngoài khơi vẫn còn cao nhưng cũng giảm đáng kể với 8,4 cent/kWh năm 2020 (giảm 48%).

Điều này có được chủ yếu là nhờ giảm chi phí đầu tư, chi phí quản lý vận hành và tăng hiệu suất của các loại hình điện.

Theo nhận định của VCBS, giảm tỷ lệ cắt giảm công suất nhờ đầu tư hệ thống truyền tải sẽ giúp các dự án điện mặt trời cải thiện hiệu suất hoạt động. Mặc dù vậy, tình trạng dư thừa công suất cục bộ vẫn cần thời gian để giải quyết.

“Công suất tăng thêm của mảng điện mặt trời sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách giá điện trong thời gian tới và có thể sẽ theo cơ chế đấu thầu. Tuy nhiên, sẽ cần thời gian dài hơi hơn để có một cơ chế tốt nhất để tránh việc đầu tư ào ạt, phá vỡ quy hoạch, gây ra sự bất cân đối nguồn điện khiến cho nhiều dự án bị giảm phát do quá tải đường dây. Với việc dư cung trong ngắn hạn, chúng tôi ước tính ít nhất cho tới hết năm 2022 vẫn chưa phát triển thêm các dự án điện mặt trời”, chuyên gia của VCBS dự báo.

Trong khi đó, cuộc đua điện gió trước ngày 1/11/2021 sẽ giúp công suất điện tăng thêm hơn 6.000 MW, chiếm gần 10% công suất hệ thống. Với giá FIT hiện tại, tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) của các dự án có thể đat 15%-18%, đem lại hiệu quả rất cao nếu được phát hết công suất. Như vậy các công ty hoàn thành kịp các dự án điện gió đúng hạn sẽ là các công ty đáng chú ý với mức sinh lời tốt.

Các công ty này hiện đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án trước những khó khăn về vận chuyển, pháp lý hay mặt bằng…

Giá FIT 1 cho điện gió ở mức 9,8 cent/kWh và 8,5 cent/kWh tương ứng với điện gió ngoài khơi và trên bờ.

Theo dự thảo Quy hoạch điện 8, năng lượng tái tạo không kể thủy điện sẽ chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn điện năm 2045 với 115,7 GW (tương ứng 42% cơ cấu nguồn điện).

Điện gió chiếm 22% tổng công suất nguồn với hơn 60 GW năm 2045. Trong đó, điện gió trên bờ đạt hơn 39,6 GW và điện gió ngoài khơi chỉ chiếm 21 GW trong khi đây là nguồn khá là ổn định, có thể thay thế các nguồn điện than hay thủy điện.

Các loại hình năng lượng tái tạo khác như Biomass, điện rác… vẫn sẽ được trú trọng. Tuy nhiên sẽ không chiếm nhiều công suất do nhiều hạn chế về nguyên vật liệu, công nghệ…

VCBS đánh giá cao triển vọng các doanh nghiệp điện có các đặc điểm sau: phát triển dự án điện gió có thể chạy thương mại trước 1/11/2021 và nằm trong khu vực được đầu tư mạng lưới truyền tải tốt, không bị cắt giảm công suất; xây dựng công trình năng lượng, mạng lưới truyền tải điện, đặc biệt là phục vụ cho điện gió; các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quản lý vận hành nhà máy điện.

Dựa trên cơ sở trên, VCBS lựa chọn cổ phiếu PC1, TV2 và REE với kỳ vọng đưa vào vận hành các dự án điện gió trong năm 2021 tạo tiền đề tăng trưởng cho các năm tiếp theo.

(Theo vietnamfinance.vn)

EVN giảm giá điện, giảm tiền điện lần 3 cho 11.614 khách hàng

(VTC News) – Tính đến 30/6/2021, EVN giảm giá điện, giảm tiền điện cho 11.614 khách hàng với tổng số tiền giảm là 118,557 tỷ đồng.

EVN cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2021, do dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp; nhu cầu điện tăng trưởng cao do các tỉnh miền Bắc, miền Trung trải qua giai đoạn thời tiết nắng nóng rất khắc nghiệt khi nhiệt độ nhiều nơi cao hơn 40 độ C trong khi mực nước nhiều hồ thủy điện lớn ở phía Bắc đang xuống thấp vào cuối mùa khô, nguy cơ sự cố do quá tải và ảnh hưởng đến tình hình cung cấp điện, nên Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.

EVN và các đơn vị đã có nhiều cố gắng nỗ lực đảm bảo cung cấp điện, phục vụ phát triển kinh tế xã hội của cả nước và sinh hoạt của nhân dân. Đảm bảo các sự kiện chính trị xã hội quan trọng, đặc biệt là cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội toàn quốc khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026.

EVN HCMC luôn đảm bảo cung cấp điện.

Trong các tháng đầu năm 2021, EVN đã đảm bảo tăng cường cấp điện cho các bệnh viện, cơ sở y tế và các khu vực cách ly tập trung phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19. Tập đoàn và các đơn vị cũng đã phối hợp với với chính quyền và nhân dân các địa phương và phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Thủy lợi và các địa phương tiến hành 3 đợt xả nước, cung cấp đủ nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân 2020 – 2021 cho các tỉnh Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ.

Trong tháng 6/2021, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt 23,9 tỷ kWh, tăng 8,6% so với tháng 6/2020. Sản lượng điện sản xuất bình quân đạt 796,7 triệu kWh/ngày, trong đó sản lượng ngày lớn nhất đạt 880,3 triệu kWh (ngày 1/6), công suất phụ tải lớn nhất đạt 42.146 MW (ngày 21/6).

Lũy kế 6 tháng đầu năm 2021, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt 128,51 tỷ kWh, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó tỷ trọng sản lượng huy động của một số loại hình nguồn điện chính trên tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống như: Thủy điện huy động đạt 30,46 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 23,7%; nhiệt điện than huy động đạt 66,67 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 51,9%; tua bin khí huy động đạt 15,66 tỷ kWh, chiếm tỷ tọng 12,2%; năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) huy động đạt 14,69 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 11,4%; điện nhập khẩu đạt 624 triệu kWh, chiếm tỷ trọng 0,5%; nhiệt điện dầu huy động không đáng kể, đạt 02 triệu kWh.

Trong 6 tháng năm 2021, điện sản xuất của EVN và các Tổng công ty phát điện (kể cả các công ty cổ phần) đạt 64,39 tỷ kWh, chiếm 50,11% sản lượng điện sản xuất của toàn hệ thống. Trong đó, tổng sản lượng điện của các nhà máy điện do EVN sở hữu 100% vốn (không tính EVNGENCO3 và các công ty cổ phần) đạt 37,63 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 29,28%. Sản lượng điện thương phẩm toàn EVN trong 6 tháng ước đạt 111,75 tỷ kWh, tăng 8,36% so cùng kỳ năm trước.

Sản lượng điện truyền tải tháng 6/2021 đạt 18,37 tỷ kWh, trào lưu truyền tải chủ yếu theo hướng Trung – Bắc và Trung – Nam. Lũy kế 6 tháng năm 2021, sản lượng điện truyền tải đạt 102,1 tỷ kWh, tăng 1,9% so cùng kỳ năm trước.

Tính đến hết tháng 6 năm 2021 trên toàn quốc, tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt gần 70%; tỷ lệ tiền điện thanh toán không bằng tiền mặt đạt khoảng 91%.

Nhờ việc cung cấp nhiều tiện ích hỗ trợ khách hàng sử dụng điện (theo dõi sản lượng điện hàng ngày, công cụ ước tính lượng điện năng tiêu thụ) và nâng cao tính minh bạch trong công tác ghi chỉ số (lắp đặt công tơ điện tử, áp dụng công cụ rà soát chỉ số bất thường), số lượng giải quyết yêu cầu của khách hàng liên quan đến chỉ số công tơ và hóa đơn tiền điện trong 06 tháng đầu năm đã giảm mạnh, chỉ chiếm 3% tổng số yêu cầu.

Tính đến hết 30/6/2021, EVN đã giảm giá điện, giảm tiền điện lần 3 cho 11.614 khách hàng với tổng số tiền giảm là 118,557 tỷ đồng.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, các đơn vị EVN đã rất nỗ lực, tập trung thúc đẩy tiến độ các dự án về đầu tư xây dựng. Đối với các dự án nguồn điện: EVN và Cơ quan phát triển Pháp (AFD) đã ký thoả thuận tín dụng cho khoản vay ưu đãi không bảo lãnh Chính phủ trị giá 74,7 triệu Euro (tương đương 1.900 tỷ đồng, chiếm 30,8% tổng mức vốn đầu tư cho dự án) cho dự án nhà máy thuỷ điện Ialy mở rộng; ký hợp đồng gói thầu số 15 (EPC-QTI) trị giá khoảng 30.236 tỷ đồng và ký hợp đồng tín dụng vay vốn dự án nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch.

Đối với các dự án lưới điện, lũy kế 6 tháng năm 2021 đã khởi công 64 công trình; hoàn thành đóng điện 64 công trình lưới điện 110-500 kV, trong đó đã đóng điện các dự án lưới điện quan trọng gồm: đường dây 500 kV Mỹ Tho – Đức Hòa, đường dây 220 kV Phả Lại nhánh rẽ Hải Dương, đóng điện máy 2 trạm biến áp 220 kV Thanh Nghị, đóng điện cải tạo đường dây 110 kV Hóc Môn – Bà Quẹo (đoạn Bình Tân – Bà Quẹo), đóng điện trạm biến áp 220 kV Lao Bảo và đóng điện đường dây 500 kV Dốc Sỏi – Pleiku 2 (thuộc dự án đường dây 500 kV mạch 3).

Để đảm bảo đáp ứng yêu cầu vận hành an toàn, liên tục hệ thống điện quốc gia, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chỉ đạo các đơn vị khẩn trương triển khai thực hiện các biện pháp cấp bách, ứng phó với diễn biến phức tạp của đợt dịch bệnh COVID-19 mới từ ngày 27/4 trở lại đây.

Bên cạnh đó, phát huy vai trò, trách nhiệm tiên phong của doanh nghiệp Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội đối với cộng đồng trong bối cảnh đại dịch COVID-19, EVN đã ủng hộ 400 tỷ đồng cho Quỹ vaccine phòng, chống COVID-19 (trong đó đã bao gồm cả 30 tỷ đồng mà EVN đã trao tặng tại Bộ Y tế vào ngày 28/5/2021). Đến nay, tổng số tiền EVN và các đơn vị thành viên đã đóng góp, ủng hộ cho các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng nặng nề cũng như hỗ trợ các hoạt động phòng chống dịch của ngành Y tế đối với riêng đợt dịch COVID-19 từ cuối tháng 4 trở lại đây là gần 430 tỷ đồng.

(Theo VTC News)

Tiêu thụ điện lập kỷ lục mới, EVN khuyến cáo bật điều hoà ở mức 27 độ trở lên.

Theo số liệu của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), diễn biến thời tiết nắng nóng cực đoan diện rộng ở miền Bắc và miền Trung từ 16/6 đã khiến lượng tiêu thụ điện tăng cao kỷ lục. Số liệu từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia (A0) cho thấy, trưa ngày 21/6, công suất tiêu thụ điện toàn quốc đạt mức đỉnh mới, 42.146 MW, tăng 437 MW so với mức “đỉnh” vừa lập cách đây 3 ngày. Đặc biệt, tại khu vực miền Bắc, công suất đỉnh mới là 18.700 MW, tăng 200 MW so với ngày 18/6. Ở Hà Nội, mức công suất đỉnh cũng đạt 4.700 MW. 

(Ảnh EVN)

Theo đó, EVN tiếp tục khuyến cáo người dân, các cơ quan công sở và nơi sản xuất cần chú ý sử dụng điện an toàn, tiết kiệm, đặc biệt vào các giờ cao điểm trưa và tối (11h30 -15h00, và 20h00 – 23h00) nhằm hạn chế nguy cơ xảy ra sự cố cục bộ trên lưới điện cũng như trong gia đình. EVN cũng khuyến cáo sử dụng hợp lý điều hoà nhiệt độ (đặt ở mức 26-27 độ trở lên, sử dụng kết hợp với quạt) và chú ý không nên sử dụng đồng thời nhiều thiết bị điện có công suất lớn, do khi nhiệt độ càng thấp, máy điều hoà càng tiêu thụ nhiều điện. Đợt nắng nóng gay gắt này bắt đầu từ ngày 16/6. Nhiệt độ cao nhất phổ biến 37 – 40 độ, có nơi trên 40 độ. Dự báo, từ ngày 23/6, nắng nóng mới suy giảm.

(Theo EVN)

Cảnh giác với quảng cáo: ‘thiết bị tiết kiệm điện’

Lợi dụng thời điểm nắng nóng, nhu cầu sử dụng điện trong sinh hoạt của người dân tăng, kéo theo hóa đơn tiền điện tăng vọt, một số người đã rao bán các “thiết bị tiết kiệm điện” với lời quảng cáo giúp giảm lượng điện tiêu thụ trong nhà.  Thiết bị được quảng cáo có khả năng tiết kiệm điện đến 30%, giảm số tiền trên hóa đơn điện được quảng cáo, rao bán tràn lan trên nhiều trang thương mại điện tử. Ảnh chụp màn hình. Tuy nhiên, sau khi sử dụng, nhiều gia đình nhận thấy sản phẩm không đúng như quảng cáo. Vụ việc này cũng đã được cơ quan chức năng lên tiếng cảnh báo nhưng đến nay các sản phẩm này vẫn được bán rộng rãi, công khai. * Thực tế không như mong đợi. Vào trang Google, chỉ cần gõ: “Thiết bị tiết kiệm điện” là dễ dàng tìm thấy những trang mạng xã hội, trang thương mại điện tử hoặc website chuyên bán sản phẩm này với giá từ 50-200 ngàn đồng/sản phẩm. Sản phẩm này được quảng cáo rất “kêu” như: dễ sử dụng, chỉ cần cắm trực tiếp vào ổ điện trong nhà sẽ giúp tiết kiệm lượng điện năng tiêu thụ đến 30%, giảm hóa đơn tiền điện mỗi tháng… Theo quảng cáo, hầu hết các “thiết bị tiết kiệm điện” đang được rao bán đều gắn mác “xuất xứ nước ngoài”, không tiêu thụ điện nên không làm tăng tiền điện. Để tăng niềm tin đối với khách hàng, nhiều tài khoản bán hàng còn đăng tải những lời chứng nhận của kỹ sư, chuyên gia nước ngoài về sản phẩm này. Tuy nhiên, không sản phẩm nào đưa ra được chứng nhận từ các cơ quan chuyên môn thẩm định về chất lượng, hiệu quả như trong quảng cáo. Chị P.T.H. (ngụ P.Trảng Dài, TP.Biên Hòa) cho hay: “Nghe quảng cáo ấn tượng quá nên đầu mùa khô năm 2021, tôi mua 1 sản phẩm với giá 80 ngàn đồng về dùng thử. Kết quả, nhu cầu dùng điện của gia đình tôi vẫn như tháng trước đó, nhưng kết quả hóa đơn tiền điện tháng 3 và 4 không giảm”. Anh C.C.H. (ngụ P.Long Bình Tân, TP.Biên Hòa) bày tỏ: “Tôi không tin các sản phẩm này cho lắm, nếu thực sự tiết kiệm điện được thì nhà sản xuất các sản phẩm cũng tích hợp vào rồi. Chính vì thấy các sản phẩm này được rao bán tràn lan nên nhiều người vẫn có niềm tin rằng, các thiết bị này có thể tiết kiệm điện”. Liên quan đến vấn đề này, Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương) cảnh báo, người bán các “thiết bị tiết kiệm điện” đang đánh vào tâm lý muốn tiết kiệm điện, tiết kiệm tiền sử dụng điện của người dân. Tuy nhiên, chính vì chưa được cơ quan chuyên môn thẩm định hiệu quả mà chỉ được phía bán hàng quảng cáo nên người tiêu dùng cần tìm hiểu kỹ thông tin trước khi mua về sử dụng. * Hậu quả khó lường. Theo Công ty TNHH MTV Điện lực Đồng Nai, về mặt kỹ thuật, tất cả các thiết bị điện khi cắm vào nguồn điện và hoạt động đều tiêu thụ một lượng điện năng nhất định. Các thiết bị đấu vào mạch điện phía sau công tơ điện chỉ có thể cải thiện một phần hệ số công suất của thiết bị điện, làm giảm tổn thất điện năng trên đường dây dẫn điện nhưng chỉ một phần rất ít. Và đó là những sản phẩm chuyên dụng của các nhà cung cấp thiết bị điện uy tín và có chứng nhận của cơ quan quản lý nhà nước. Còn lại, những sản phẩm đang được quảng cáo là “thiết bị tiết kiệm điện” trên thị trường không những không làm giảm điện năng tiêu thụ mà các thiết bị này còn làm tốn thêm tiền điện và tiềm ẩn nguy cơ gây cháy, nổ nguy hiểm cho người sử dụng. Do đó, để tiết kiệm điện năng tiêu thụ trong nhà, Công ty TNHH MTV Điện lực Đồng Nai khuyến cáo khách hàng nên mua những đồ dùng điện có dán nhãn chứng nhận tiết kiệm năng lượng, lựa chọn công suất phù hợp với nhu cầu, vệ sinh bảo dưỡng định kỳ và quan trọng là luôn thực hiện tốt ý thức tiết kiệm điện, tắt các thiết bị khi không sử dụng. Theo một số luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh, nếu các “thiết bị tiết kiệm điện” này có tác dụng can thiệp trực tiếp vào hoạt động công tơ điện có nghĩa là người sử dụng thiết bị này đang thực hiện hành vi vi phạm quy định sử dụng điện; người dùng sẽ bị truy thu tiền điện, phạt tiền theo quy định tại Khoản 9, Điều 12 Nghị định 134/2013/NĐ-CP ngày 17-10-2012, về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cụ thể, người dùng có thể bị phạt từ 2-50 triệu đồng đối với hành vi trộm cắp điện dưới mọi hình thức với số lượng đến dưới 20 ngàn kWh điện. Riêng trường hợp trộm cắp điện từ 20 ngàn kWh trở lên thì cơ quan chức năng chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định.

Tại Khoản 5, Điều 51 Nghị định 158/2013/NĐ-CP, ngày 12-11-2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo nêu rõ, phạt tiền từ 50-70 triệu đồng đối với hành vi “quảng cáo sai sự thật…” hoặc “quảng cáo lừa dối, gây nhầm lẫn về tính năng, tác dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo…”.

(Theo pcdongnai.vn)

Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép

Đại diện EVN vừa cho biết trong tháng 5-2021, đơn vị đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép, vừa bảo đảm phòng, chống dịch Covid-19, vừa bảo đảm cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và sinh hoạt người dân, đặc biệt trong dịp bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống tháng 5-2021 đạt 23,98 tỉ KWh, đạt 104% kế hoạch. Lũy kế 5 tháng đạt 104,66 tỉ KWh, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tỉ lệ huy động một số nguồn chính như sau: Thủy điện đạt 24,01 tỉ KWh, chiếm 22,9% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống; Nhiệt điện than đạt 54,13 tỉ KWh (chiếm 51,7%); Tua bin khí đạt 13,28 tỉ KWh (chiếm 12,7%).

Huy động điện mặt trời tăng gần 3 lần

Đáng chú ý, năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đạt 12,35 tỉ KWh, tăng 159,5% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 11,8% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống. Riêng điện mặt trời đạt 11,48 tỉ KWh, tăng gần 3 lần so với cùng kỳ. Trong khi đó, nhiệt điện dầu huy động không đáng kể, đạt 2 triệu KWh; Điện nhập khẩu đạt 556 triệu KWh, giảm 67% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 0,5% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống.

Đại diện EVN cho biết thêm, sản lượng điện thương phẩm toàn EVN tháng 5-2021 ước đạt 19,67 tỉ KWh, tăng 15,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 5 tháng đạt 90,51 tỉ KWh, tăng 8,51% so với cùng kỳ năm 2020. Đặc biệt, vào cuối tháng 5-2021, các tỉnh miền Bắc, miền Trung bước vào giai đoạn nắng nóng khắc nghiệt khi nhiệt độ nhiều nơi cao hơn 40 độ C, khiến lượng điện tiêu thụ tăng đột biến. Sản lượng tiêu thụ toàn quốc ngày 31-5 là 850,3 triệu KWh với công suất đỉnh là 41.549 MW. Ngày 1-6 tiếp tục lập kỷ lục mới với sản lượng điện tiêu thụ toàn quốc là 880,3 triệu KWh, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng hơn 15% so với trung bình tuần trước đợt nóng.

EVN đã bảo đảm vận hành hệ thống điện trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp

Về đầu tư xây dựng, lũy kế 5 tháng năm 2021 đã khởi công 40 công trình; hoàn thành đóng điện 49 công trình lưới điện 110-500 KV, trong đó đã đóng điện các dự án lưới điện quan trọng gồm: đường dây 500KV Mỹ Tho – Đức Hòa, đường dây 220KV Phả Lại rẽ Hải Dương, đóng điện máy 2 trạm biến áp 220KV Thanh Nghị, đóng điện cải tạo đường dây 110KV Hóc Môn – Bà Quẹo (đoạn Bình Tân – Bà Quẹo) và bàn giao 100% mặt bằng đoạn đường dây 500KV Dốc Sỏi – Pleiku 2. Về công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng, trong 5 tháng đầu năm 2021, tỉ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 69,85%; tỉ lệ tiền điện được thanh toán không dùng tiền mặt toàn EVN đạt 90,95%.

Khuyến cáo khách hàng sử dụng điện tiết kiệm

Theo EVN, tháng 6-2021, sản lượng tiêu thụ điện bình quân ngày toàn hệ thống dự kiến ở mức 799 triệu KWh/ngày, công suất phụ tải lớn nhất ước khoảng 41.556 MW. Nhận định xu thế thời tiết của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, những ngày đầu tháng do tác động của vùng áp thấp nóng phía Tây, khu vực Bắc Bộ và từ Thanh Hóa đến Phú Yên có nắng nóng và nắng nóng gay gắt; mức độ tiêu thụ điện toàn quốc và miền Bắc tăng cao.

EVN cho biết sẽ tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ kép, vừa bảo đảm phòng chống dịch Covid-19, vừa bảo đảm cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và sinh hoạt người dân, đặc biệt là yêu cầu bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định. Bên cạnh đó, khai thác các nguồn điện bảo đảm tối ưu đồng thời thủy điện – nhiệt điện; huy động thủy điện theo nước về, bảo đảm cấp nước hạ du cho các địa phương.

Về công tác đầu tư xây dựng, đại diện EVN khẳng định sẽ đôn đốc các đơn vị khắc phục khó khăn trong thi công do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, bảo đảm tiến độ các công trình nguồn điện và tiến độ đóng điện các công trình lưới điện quan trọng. Phấn đấu hoàn thành đóng điện đường dây 500KV Dốc Sỏi – Pleiku 2 (thuộc dự án đường dây 500KV mạch 3) và đường dây 500KV đấu nối Nhiệt điện Nghi Sơn 2…

Trong tháng 6-2021, EVN tiếp tục chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt công tác bảo đảm điện mùa khô, đồng thời chỉ đạo các Tổng công ty/công ty điện lực chuẩn bị đầy đủ nhân lực, phương tiện, tăng cường ứng trực 24/24 giờ để đối phó, xử lý kịp thời với các tình huống quá tải cục bộ, xử lý kịp thời sự cố, tiếp tục nỗ lực để bảo đảm cung cấp điện cho khách hàng.

Để giảm bớt những khó khăn trong cung ứng điện, giảm sức ép trong vận hành hệ thống điện, giảm thiểu nguy cơ quá tải cục bộ của lưới điện, EVN rất mong nhận được sự chia sẻ của quý khách hàng và khuyến cáo khách hàng sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả (đặc biệt vào các giờ cao điểm trưa từ 11 giờ 30 phút đến 15 giờ và cao điểm tối từ 20 giờ đến 23 giờ) với nhiều biện pháp như: tắt các thiết bị điện khi không có nhu cầu sử dụng, chỉnh nhiệt độ điều hòa ở 27 độ C trở lên, sử dụng kết hợp với quạt; không nên sử dụng đồng thời nhiều thiết bị điện công suất lớn để giảm thiểu nguy cơ xảy ra sự cố, cháy nổ về điện…

Ủng hộ 400 tỉ đồng cho Quỹ Vắc-xin phòng chống Covid-19

Với tinh thần khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ và phát huy vai trò, trách nhiệm tiên phong của doanh nghiệp Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội đối với cộng đồng trong bối cảnh đại dịch Covid-19, EVN đã ủng hộ 400 tỉ đồng cho Quỹ Vắc-xin phòng Covid-19. Tổng số tiền mà EVN và các đơn vị thành viên đã đóng góp, ủng hộ cho các tỉnh, thành phố đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch cũng như hỗ trợ các hoạt động phòng chống dịch của ngành y tế đối với riêng đợt dịch lần thứ 4 là gần 408 tỉ đồng.

(Theo: nld.cpm.vn)

Thực hiện giảm giá điện, giảm tiền điện hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19.

Thực hiện giảm giá điện, giảm tiền điện hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19
Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2020 và công văn số 2698/BCT-ĐTĐL ngày 16/4/2020 của Bộ Công Thương về việc hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19; ngay trong ngày 16/4/2020, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức triển khai thực hiện giá điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Thông tin về phương án giảm giá điện, giảm tiền điện cụ thể như sau:

1. Về việc giảm giá điện:

– Giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất và kinh doanh: Giảm 10% giá bán lẻ điện quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về điều chỉnh mức giá bán lẻ bình quân và qui định giá bán điện (Quyết định số 648/QĐ-BCT) ở các khung giá giờ cao điểm, giờ bình thường và giờ thấp điểm.

– Giá bán lẻ cho các khách hàng sử dụng điện sinh hoạt: Giảm 10% giá bán lẻ điện sinh hoạt từ bậc 1 đến bậc 4 quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

– Khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch (theo qui định tại Luật Du lịch 2017 và các văn bản pháp luật có liên quan): Giảm giá điện từ mức giá bán lẻ điện áp dụng cho kinh doanh xuống bằng mức giá bán lẻ điện áp dụng cho các ngành sản xuất sau khi giảm giá.

– Đối với giá bán buôn điện nông thôn; giá bán buôn điện khu tập thể, cụm dân cư; giá bán buôn điện cho tổ hợp thương mại-dịch vụ-sinh hoạt: Giảm 10% giá bán buôn điện đối với bậc 1 đến bậc 4 của giá sinh hoạt; giảm 10% bán buôn điện cho mục đích khác tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

– Đối với giá bán buôn điện cho các khu công nghiệp, giá bán buôn điện cho chợ: Giảm 10% giá bán buôn điện so với biểu giá bán buôn điện tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

2. Về việc giảm tiền điện:

Giảm tiền điện (giá trị trước thuế) trực tiếp cho các cơ sở phục vụ phòng, chống dịch Covid-19 mua điện từ các đơn vị thuộc EVN, cụ thể như sau:

– Giảm 100% tiền điện cho các cơ sở (không phải là khách sạn) được dùng để cách ly, khám bệnh tập trung bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

– Giảm 20% tiền điện cho các cơ sở y tế được dùng để khám, xét nghiệm, điều trị bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

– Giảm 20% tiền điện cho các khách sạn được dùng để cách ly bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

Danh sách các cơ sở phục vụ phòng, chống dịch Covid-19 được giảm tiền điện do Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hàng tháng cung cấp cho các Đơn vị Điện lực triển khai thực hiện.

3. Thời gian áp dụng hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện:

Tổng số thời gian khách hàng được hỗ trợ giảm giá điện và giảm tiền điện là ba (03) tháng. Thời điểm giảm giá điện và giảm tiền điện cụ thể như sau:

– Đối với khách hàng sử dụng điện sinh hoạt, sản lượng điện sử dụng của khách hàng có chu kỳ bắt đầu trong các tháng 4, tháng 5 và tháng 6 năm 2020 (xác định theo kỳ ghi chỉ số hàng tháng của Đơn vị Điện lực) sẽ được thực hiện giảm giá tương ứng tại các kỳ hoá đơn tiền điện tháng 5, tháng 6 và tháng 7 năm 2020.

– Đối với các khách hàng sử dụng điện ngoài sinh hoạt (sản xuất, kinh doanh, hành chính sự nghiệp…): thực hiện từ kỳ hoá đơn gần nhất kể từ ngày 16/4/2020.

– Đối với các khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch: các Đơn vị Điện lực thuộc EVN sẽ thông báo qua các phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử (SMS, Email, Zalo, App Chăm sóc khách hàng (CSKH), website CSKH…) cho tất cả khách hàng hiện đang áp dụng giá kinh doanh về chính sách chuyển sang giá sản xuất cho các cơ sở lưu trú du lịch và đề nghị các quý khách hàng đủ điều kiện cung cấp giấy tờ xác định “cơ sở lưu trú du lịch” theo quy định của Luật Du lịch năm 2017 là 01 trong các giấy tờ sau: (i) Văn bản của Sở Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch về kết quả kiểm tra đến cơ sở lưu trú du lịch theo quy định tại Điều 29, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP (ii) Quyết định hạng cơ sở lưu trú du lịch được các cơ quan có thẩm quyền cấp.

Các đơn vị của EVN thực hiện tổ chức tiếp nhận yêu cầu trên qua các kênh giao tiếp: (i) Cổng Dịch vụ công Quốc gia; (ii) Các kênh trên Internet (Web CSKH/App CSKH/Email/Zalo…); (iii) Tổng đài CSKH; (iv) Phòng Giao dịch khách hàng… để thực hiện các thủ tục chuyển đổi giá cho khách hàng với thời gian thực hiện trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận đù hồ sơ. Với các khách hàng đủ điều kiện, EVN cam kết đảm bảo đầy đủ quyền lợi được hỗ trợ tiền điện các kỳ hóa đơn trong vòng 03 tháng (kể từ kỳ hoá đơn gần nhất tính từ ngày 16/04/2020) theo đúng chỉ đạo của Bộ Công Thương.

4. Sau thời hạn giảm giá điện, giảm tiền điện:

Áp dụng giá bán điện theo quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

Để đảm bảo tính công khai minh bạch, các Đơn vị Điện lực trực thuộc niêm yết công khai Công văn số 2698/BCT-ĐTĐL, Thông tư số 16/2014/TT-BCT, Thông tư số 25/2018/TT-BCT, các văn bản hướng dẫn về giá bán điện của Bộ Công Thương và của Tập đoàn tại tất cả các địa điểm giao dịch với khách hàng, website Chăm sóc khách hàng, website đơn vị theo quy định của Luật Điện lực.

EVN đang khẩn trương triển khai nâng cấp công cụ tính toán hóa đơn trực tuyến tại chuyên mục “EVN & Khách hàng” trên website của EVN (www.evn.com.vn), trong đó có chức năng phục vụ tính toán thay đổi giá điện với mức được hỗ trợ theo quy định. Số tiền điện được giảm, được hỗ trợ được Tập đoàn tính toán công khai, minh bạch, được thể hiện rõ ràng trên Bản thể hiện hoá đơn điện tử và Thông báo tiền điện gửi đến quý khách hàng.

Các khách hàng sử dụng điện có thể theo dõi số tiền được hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 được thể hiện như các mẫu thể hiện hóa đơn điện tử (như Phụ lục gửi kèm) trên website Chăm sóc khách hàng (CSKH) của các Tổng công ty Điện lực.

Như vậy, với việc thực hiện giảm giá điện, hỗ trợ tiền điện như trên, số tiền hỗ trợ dự kiến khoảng 11.000 tỷ đồng bao gồm 100% khách hàng sử dụng điện sinh hoạt tương ứng 26,6 triệu hộ gia đình đều được giảm 10% giá điện của 04 bậc thang đầu, trong đó chủ yếu là các hộ gia đình sử dụng điện sinh hoạt sử dụng dưới 300 kWh/tháng là 22,8 triệu hộ gia đình (chiếm tỷ lệ 85,7%) sẽ được giảm 10% tiền điện. Ngoài ra còn có hơn 2 triệu khách hàng sản xuất, kinh doanh cũng được giảm 10% giá bán lẻ điện. Các khách hàng là cơ sở lưu trú du lịch đáp ứng điều kiện của Luật Du lịch năm 2017 còn được chuyển đổi từ giá kinh doanh sang giá sản xuất. Bên cạnh đó, các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị COVID-19 và các khu cách ly tập trung cũng được miễn, giảm tiền điện trong thời gian 3 tháng.

Trong bối cảnh tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 hiện nay, EVN và các đơn vị tiếp tục cố gắng, nỗ lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ kép là vừa đảm bảo cung cấp điện, vừa chung sức cùng nhân dân cả nước phòng chống dịch COVID-19. Tập đoàn Điện lực Việt Nam trân trọng cám ơn quý khách hàng đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện để Tập đoàn hoàn thành nhiệm vụ.

(Theo: evn.com.vn)

Công ty TNHH Điện lực Đồng Nai: Lợi ích kép từ chuyển đổi số

Trong những năm qua, Công ty Điện lực Đồng Nai luôn chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học công nghệ tiên tiến trong công tác dịch vụ khách hàng, phát triển lưới điện và quản lý vận hành hệ thống điện, góp phần nâng cao chất lượng điện năng và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng cũng nhưng đơn vị.

Chuyển đổi số đồng bộ

Công tác chuyển đổi số tại Công ty Điện lực Đồng Nai được thực hiện đồng bộ trên 5 lĩnh vực. Thứ nhất, trong lĩnh vực sản xuất, các hoạt động quản lý kỹ thuật, quản lý vận hành lưới điện đã được thực hiện trên các hệ thống phần mềm như Hệ thống phần mềm quản lý kỹ thuật (PMIS); Hệ thống dự báo phụ tải và tính toán hệ thống điện; hệ thống quản lý độ tin cậy cung cấp điện (OMS); phần mềm phân tích mô phỏng lưới điện phân phối (PSS/Adept),… Hệ thống điều khiển, giám sát và thu thập dữ liệu SCADA/DMS đã khai thác có hiệu quả phân hệ DMS với các ứng dụng tính toán lưới điện đã được xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu liên tục cho lưới điện; các ứng dụng khác như dự báo phụ tải, mô phỏng đào tạo điều độ viên (OTS), chức năng tự động xác định sự cố, cô lập và phục hồi cung cấp điện (FLISR) đã được đưa vào vận hành chính thức.

Công ty đã thực hiện điều khiển xa cho 27 TBA 110kV đạt 100% số TBA 110kV hiện hữu; lắp đặt và đưa vào khai thác hệ thống camera giám sát tại 11/27 TBA 110kV; kết nối tín hiệu và điều khiển từ xa cho các thiết bị điều khiển trên lưới trung thế 22kV (Recloser/LBS); tỷ lệ công tơ điện tử đạt 52,8% tổng số công tơ đang vận hành trên lưới.

Thứ hai, đối với lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ khách hàng, Công ty đang vận hành có hiệu quả Hệ thống phần mềm quản lý khách hàng sử dụng điện và các chương trình ứng dụng hiện trường như: Khảo sát cấp điện hạ áp, ghi điện và thông báo tiền điện, lắp đặt công tơ, kiểm tra công tơ, các hệ thống phần mềm thu thập và quản lý dữ liệu đo đếm, số hóa hợp đồng mua bán điện, cổng thanh toán điện tử…. Qua đó, giúp nâng tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 99%; thời gian cấp điện mới cho khách hàng tiếp tục được rút ngắn, trong đó thời gian bình quân cấp điện lưới trung áp là 4 ngày – rút ngắn 0,5 ngày so với qui định của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Các dịch vụ về điện tiếp tục phát triển và đa dạng hóa hình thức cung cấp, trong đó tỷ lệ khách hàng giao dịch 12 dịch vụ cung cấp điện qua Trung tâm Chăm sóc khách hàng và Cổng dịch vụ công Quốc gia đạt 87,94% trên tổng số giao dịch; tỷ lệ khách hàng sử dụng dịch vụ cung cấp điện trực tuyến cấp độ 4 đạt 91,98% trên tổng số giao dịch; điện tử hóa toàn bộ quá trình cung cấp dịch vụ điện, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 62%/tổng số giao dịch.

Thứ ba, trong lĩnh vực quản trị nội bộ, Công ty đã triển khai hệ thống văn phòng điện tử (E-Office) kết nối với Tổng công ty Điện lực miền Nam (Tổng công ty) và các đơn vị trực thuộc, tất cả các văn bản đi và đến đã được số hóa và được quản lý thống nhất trên hệ thống có tích hợp chữ ký số; hệ thống Hội nghị truyền hình kết nối với hệ thống của Tập đoàn và hệ thống của Tổng công ty để triển khai các cuộc họp truyền hình 04 cấp từ Tập đoàn đến các điện lực, phòng, ban, đội trực thuộc.

Các hệ thống quản lý nguồn nhân lực (HRMS) và hệ thống Quản lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP) cũng được khai thác có hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho Công ty trong công tác quản trị, quản lý điều hành.

Thứ tư, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Công ty triển khai phần mềm quản lý đầu tư xây dựng (IMIS) để quản lý thông tin toàn bộ dự án đầu tư xây dựng và quá trình thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc đầu tư. Công tác đấu thầu qua mạng đã và đang được áp dụng tại Công ty và các đơn vị trực thuộc thông qua Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia với tỷ lệ các gói thầu đấu thầu qua mạng đạt 100% số các gói thầu thực hiện theo hình thức chào hàng cạnh tranh và đấu thầu rộng rãi.

Thứ năm, đối với lĩnh vực viễn thông dùng riêng và công nghệ thông tin: Công ty đã triển khai mạng cáp quang nội hạt kết nối hệ thống mạng máy tính tại văn phòng Công ty đến 100% cơ sở ngành điện như văn phòng các điện lực, tổ, đội với tổng chiều dài các tuyến cáp quang đang vận hành trên 1.206 km. Băng thông truyền dẫn giữa các nút mạng đạt tốc độ 1Gbps đáp ứng được nhu cầu quản trị và điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty.

Bên cạnh việc triển khai ứng dụng các hệ thống phần mềm quản lý dùng chung của Tập đoàn và của Tổng công ty, Công ty còn tự xây dựng các chương trình phần mềm dùng riêng đáp ứng các nhu cầu quản lý trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Công ty cũng từng bước thực hiện tự động hóa lưới điện và xây dựng lưới điện thông minh với việc thay thế các công tơ đo đếm điện năng cơ khí bằng các công tơ điện tử có chức năng truyền dữ liệu đo đếm từ xa, vận hành các thiết bị đóng cắt điện có chức năng điều khiển từ xa, triển khai hệ thống trạm biến áp 110kV không người trực và vận hành hệ thống SCADA.

Với những chương trình đã triển khai, trong năm 2019 Công ty đã vinh dự được Bộ Thông tin và Truyền thông trao tặng giải thưởng Doanh nghiệp chuyển đổi số cho giải pháp Ứng dụng số hóa hợp đồng mua bán điện.

Hiệu quả thiết thực

Chuyển đổi số đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong công tác dịch vụ khách hàng, chuyển đổi số đã giúp cho khách hàng có thể yêu cầu cung cấp thông tin, các dịch vụ điện trực tuyến thông qua các trang web của Tổng công ty và của Công ty, hoặc thông qua các ứng dụng trên thiết bị di động một cách nhanh chóng, thuận tiện và khách hàng giám sát được tiến trình giải quyết các yêu cầu dịch vụ của mình.

Đặc biệt, chuyển đổi số giúp giảm chi phí vận hành doanh nghiệp khi Công ty chuyển đổi hình thức hóa đơn tiền điện dạng giấy sang hình thức điện tử đã giúp tiết kiệm chi phí in ấn và phát hành gần 1 triệu hóa đơn mỗi tháng, hoặc giảm nhân công ghi điện khi chuyển đổi các công tơ cơ khí bằng công tơ điện tử có chức năng truyền dữ liệu từ xa… Nhờ đó, nhân viên không cần phải thực hiện các nghiệp vụ mang tính thủ công như tổng hợp số liệu, lập báo cáo từ đó nâng cao năng xuất lao động. Ngoài ra, các dữ liệu này luôn có sẵn trên các hệ thống quản lý, giúp lãnh đạo Công ty ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt và kịp thời.

Về lâu dài, nhằm thực hiện chủ trương của EVN và kế hoạch chuyển đổi số của Tổng công ty với mục tiêu đề ra đến hết năm 2022, EVN cơ bản chuyển đổi thành doanh nghiệp số, Công ty xác định chuyển đổi số là trách nhiệm của toàn thể người lao động. Theo đó, Công ty sẽ chú trọng thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cũng như đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển doanh nghiệp số cho lãnh đạo các cấp và toàn thể người lao động trong đơn vị.

Đồng thời, Công ty triển khai ứng dụng các hệ thống phần mềm quản lý dùng chung của Tập đoàn và của Tổng công ty theo đúng kế hoạch tiến độ; cập nhật kịp thời, đầy đủ và chính xác dữ liệu trên các hệ thống này; tiến hành rà soát các quy trình hiện tại còn đang phải làm thủ công, bằng giấy và xem xét khả năng ứng dụng công nghệ mới để hiệu chỉnh, đơn giản hóa và số hóa các quy trình này.

Mặt khác, Công ty tiếp tục xây dựng các phần mềm ứng dụng dùng riêng đáp ứng yêu cầu quản lý đặc thù của Công ty; ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để triển khai nhanh lưới điện thông minh, tự động hóa lưới điện; cung cấp các công cụ, phương tiện để hỗ trợ người lao động trong việc sàng lọc, tìm kiếm và chia sẻ thông tin, hỗ trợ tốt nhất cho công việc và tiết kiệm thời gian, sức lao động.

(Theo Công Thương)