2 ấp cuối cùng của Đồng Nai có lưới điện quốc gia

Công trình lưới điện quốc gia phục vụ hơn 700 hộ dân với khoảng 3.500 nhân khẩu thuộc ấp 3, ấp 4 thuộc xã Mã Đà (H.Vĩnh Cửu) đã được khánh thành. Đây là 2 ấp cuối cùng của Đồng Nai được cấp điện. 

Ngoài cung cấp điện sinh hoạt, công trình còn phục vụ nhu cầu sản xuất của hơn 600 ha đất nông nghiệp

Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Nguyễn Hồng Lĩnh và Chủ tịch HĐND Thái Bảo cùng lãnh đạo UBND tỉnh, Ban Nội chính, Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy đã về dự.

Theo Công ty Điện lực Đồng Nai, công trình được khởi công vào tháng 4.2021 với tổng kinh phí hơn 23 tỉ đồng gồm 2 gói xây dựng: đường dây trung thế dài 18km và trạm biến áp 3 pha có tổng vốn đầu tư hơn 12,7 tỉ đồng do Công ty Điện lực Đồng Nai thực hiện; đường dây hạ thế dài 27 km có kinh phí hơn 10 tỉ đồng, trong đó người dân đóng góp 20%, số tiền còn lại nhà nước bỏ tiền đầu tư.

Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai cùng nhiều lãnh đạo tỉnh khác đã tham dự lễ khánh thành

Lãnh đạo xã Mã Đà cho biết, ấp 3 và ấp 4 hình thành khu dân cư từ 30 năm trước, nhưng do nằm trong vùng lõi của Khu bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, nên trước đây Đồng Nai có chủ trương di dời toàn bộ người dân 2 ấp ra bên ngoài. Sau đó, chủ trương của tỉnh đã thay đổi theo hướng ổn định dân cư tại chỗ, từ đó chính quyền địa phương mới tiến hành kéo lưới điện vào đây.

(Theo Thanhnien.vn)

Hoàn thiện hệ thống điện đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương

Công ty TNHH MTV Điện lực Đồng Nai đã chính thức đóng điện, đưa vào vận hành 02 Trạm biến áp 110kV Định Quán 2 và Vĩnh An, góp phần đảm bảo cung cấp điện ổn định cho các KCN khu vực Định Quán, Vĩnh Cửu.

Được biết, điện được đóng vào lúc 23 giờ ngày 11/ 12 sau 02 năm rưỡi thi công.

Trong đó, công trình TBA 110kV Định Quán 2 và đường dây đấu nối gồm 1 máy biến áp 110kV với công suất 40MVA được xây trên khuôn viên rộng 6.432m2. Công trình có tổng mức đầu tư xây dựng là 56,2 tỷ đồng từ nguồn vốn khấu hao cơ bản và vốn vay thương mại.

Công ty TNHH MTV Điện lực Đồng Nai đã chính thức đóng điện, đưa vào vận hành 02 Trạm biến áp 110kV Định Quán 2 và Vĩnh An. Ảnh: Lê Lâm.

Trạm được trang bị hệ thống SCADA, cùng hệ thống camera giám sát an ninh và phòng cháy chữa cháy hiện đại, đáp ứng được tiêu chuẩn và quy mô trạm vận hành tự động, không người trực.

Việc đưa vào vận hành trạm biến áp trên nhằm đảm bảo nguồn cung cấp điện cho KCN Định Quán, kết nối mạch vòng giữa các TBA 110kV Định Quán – Kiệm Tân thông qua xuất tuyến lưới điện 22kV.

Còn công trình lắp máy 2 TBA 110kV Vĩnh An có hạng mục chính là lắp máy biến áp thứ 2 Trạm 110kV Vĩnh An, công suất 40MVA (sau máy biến áp 1 được xây dựng hoàn thành năm 2017, công suất 40MVA) có tổng mức đầu tư 13,2 tỷ đồng.

Đây là 2 công trình được đầu tư xây dựng theo quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2025 có xét đến 2035.

(Theo PC Đồng Nai)

Thi công lưới điện Điện lực Biên Hòa: CHẠY ĐUA THỜI GIAN

Khác với năm 2020 là chạy đua tiến độ lắp đặt Solar kịp thời hạn FIT2; những ngày cuối năm 2021 này, NVR cũng đang phải chạy đua thời gian trong việc hoàn thành khối lượng gói thầu Sửa chữa lớn 2021 của Điện lực Biên Hòa. Cụ thể:

Kéo mới hơn 600m cáp ngầm trung thế 24kV, 300m đường dây trung thế trên không; lắp đặt 13 trạm biến áp phân phối 400kVA; xây dựng mới hơn 7.000m cáp ha thế 0,4kV và 11.000m cáp hạ thế ABC-4x120mm2 cải tạo trên địa bàn của 10 Phường thuộc Tp. Biên Hòa. Tổng giá trị công trình khoảng 15 tỷ đồng.

Hiện NVR đang tập trung toàn lực để hoàn thành đúng tiến độ đã đề ra nhằm góp phần nâng cao độ tin cậy cấp điện cho ngành Điện lực, tạo mỹ quan đường phố và cùng với người dân địa phương đón chào năm mới 2022 tràn đầy năng lượng,

(Một số hình ảnh thi công)

 

Lãnh VTTB thi công

Lắp MBA lên đà trạm ngồi

Thi công kéo dây cáp ABC

Thi công đào mương cáp ngầm

(Nguồn NVR)

Gỡ khó về mặt bằng cho các dự án lưới điện trọng điểm tại tỉnh Đồng Nai

Các dự án đường dây 500 kV Long Thành – rẽ Phú Mỹ – Sông Mây; trạm biến áp 500 kV Long Thành và đấu nối; trạm biến áp 220 kV An Phước đang gặp nhiều vướng mắc trong bồi thường giải phóng mặt bằng

Cuộc họp nhằm gỡ khó khăn mặt bằng các dự án lưới điện trọng điểm tại tỉnh Đồng Nai. Ảnh: Đức Dũng/BNEWS/TTXVN

Theo báo cáo từ Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Nam (SPMB), hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, SPMB đang được Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) giao quản lý đầu tư 13 dự án trạm biến áp, đường dây điện cao áp 220 kV, 500 kV; trong đó có 03 dự án đường dây 500 kV Long Thành – rẽ Phú Mỹ – Sông Mây; trạm biến áp 500 kV Long Thành và đấu nối; trạm biến áp 220 kV An Phước phải hoàn thành đóng điện trong năm 2021. Đến nay, các dự án trọng điểm trên đang gặp nhiều vướng mắc trong bồi thường giải phóng mặt bằng nên đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ.

Ông Trương Hữu Thành, Giám đốc SPMB cho hay, đơn vị đã đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai, các sở, địa phương quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ SPMB tháo gỡ những khó khăn trong bồi thường giải phóng mặt bằng. Theo đó, đối với dự án đường dây 500 kV Long Thành – rẽ Phú Mỹ – Sông Mây, SPMB đã đề nghị UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo Công ty Cao su Đồng Nai bàn giao mặt bằng để triển khai kéo dây, đồng thời cho chủ trương bồi thường cây cao su ngoài hành lang có nguy cơ ngã đỗ vào đường dây như đề xuất của Sở Tài chính. Các địa phương sớm tiến hành chi trả tiền bồi thường cho các hộ dân và khẩn trương hoàn thiện hồ sơ để thực hiện biện pháp hành chính thu hồi đất somg song với việc vận động của các ban ngành chức năng; đẩy nhanh tiến độ lập phương án bồi thường đợt 2; trong đó ưu tiên cho các vị trí 30, 34, 35, 43 trong tháng 10/2021.

Đối với dự án trạm biến áp 500 kV Long Thành và đấu nối, SPMB đã đề nghị UBND tỉnh sớm phê duyệt giá đất cụ thể cho tuyến đấu nối 220 kV của dự án. Thành lập Tổ vận động giải thích chủ trương chính sách của nhà nước để các hộ dân hiểu và đồng thuận tạo điều kiện triển khai giải phóng mặt bằng; hoàn thành phê duyệt phương án bồi thường và bàn giao mặt bằng cho SPMB thi công trong tháng 11/2021.

Dự án trạm biến áp 220 kV An Phước, SPMB đã đề nghị UBND tỉnh và các địa phương tổ chức bảo vệ thi công cũng như phê duyệt các phương án bồi thường đối với đất có tranh chấp.

Ngoài ra để sớm triển khai và hoàn thành các dự án cần đóng điện trong năm 2022 cũng như các dự án chuẩn bị đầu tư, ông Trương Hữu Thành, Giám đốc SPMB đã đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai quan tâm bố trí quỹ đất, kế hoạch sử dụng đất đối với các dự án do SPMB đang triển khai cũng như hoàn thành kiểm kê, xác minh nguồn gốc đất, thẩm tra nguồn gốc đất, áp giá lập phương án bồi thường trình thẩm định và phê duyệt để SPMB đẩy nhanh tiến độ …

Dự án Trạm biến áp 500 kV Long Thành và đấu nối. Ảnh: Đức Dũng/BNEWS/TTXVN

Về phía địa phương, để thúc đẩy tiến độ dự án, ông Cao Tiến Dũng, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, các huyện, xã có liên quan đến dự án đẩy nhanh vận động người dân nhận tiền bồi thường, rút ngắn thời gian thu hồi đất để sớm bàn giao mặt bằng cho SPMB thi công.

Cụ thể, ông Cao Tiến Dũng giao UBND huyện Trảng Bom hoàn thành bàn giao mặt bằng dự án Đường dây 500 kV Long Thành – rẽ Phú Mỹ – Sông Mây trước ngày 15/11/2021; UBND huyện Long Thành khẩn trương bàn giao mặt bằng Trạm biến áp 500 kV Long Thành và đấu nối.

Đối với các dự án khác, UBND các địa phương cần phân loại các hộ chưa nhận tiền để có kế hoạch vận động cụ thể, đồng thời tại các vị trí bị cản trở cần chủ động xây dựng kế hoạch, lực lượng tổ chức bảo vệ thi công để việc thực hiện dự án đáp ứng theo tiến độ đề ra. Đối với các dự án mà SPMB có kế hoạch đóng điện năm 2022, các địa phương cần nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ, thủ tục phê duyệt phương án bồi thường và bàn giao mặt bằng. Đối với các dự án SPMB chuẩn bị đầu tư trong thời gian đến, các Sở có liên quan và địa phương xem xét đưa vào kế hoạch sử dụng đất của địa phương trình UBND tỉnh phê duyệt…, ông Dũng chỉ đạo/.

(Theo Baomoi.com)

Điện lực Đồng Nai: Bảo đảm cấp điện ổn định, liên tục cho phục hồi sản xuất, ổn định cuộc sống

Đồng Nai là một trong những địa phương bị ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19. Để bảo đảm cung ứng điện đầy đủ cho phát triển kinh tế-xã hội, sinh hoạt và đặc biệt là các bệnh viện, cơ sở y tế, khu cách ly tập trung thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch, Công ty TNHH MTV Điện lực Đồng Nai (PC Đồng Nai) đã chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều giải pháp.

PC Đồng Nai đã chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều giải pháp để bảo đảm cung ứng điện đầy đủ cho phát triển kinh tế-xã hội. Ảnh: VGP/Hoàng Trung

Không thiếu điện trong thời gian giãn cách

PC Đồng Nai đã triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo, hướng dẫn của ngành điện và UBND tỉnh, không để xảy ra thiếu điện trong suốt thời gian thực hiện giãn cách xã hội; cung cấp kịp thời, liên tục và an toàn phục vụ đời sống dân sinh và công tác phòng chống dịch.

Từ đầu tháng 7/2021, PC Đồng Nai và các đơn vị trực thuộc đã tổ chức xét nghiệm COVID-19 hàng tuần cho người lao động và chuyển sang chế độ trực tập trung với gần 700 cán bộ công nhân viên. Trong thời gian áp dụng giãn cách xã hội, công tác quản lý, vận hành được duy trì theo phương án trực 2 nơi riêng biệt. Các nhóm trực được chia theo kíp, các kíp trực không tiếp xúc nhau để tránh lây chéo.

Công ty đẩy mạnh các kênh giao dịch trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng; triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, điều hành và dịch vụ khách hàng cho bộ phận gián tiếp làm việc tại nhà. Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, vật tư phòng các sự cố về điện và thiết bị y tế dự phòng, nhu yếu phẩm cho lực lượng trực yên tâm công tác.

Nhờ vậy, thời gian giãn cách xã hội toàn tỉnh, ngoài việc bảo đảm cung ứng điện liên tục cho cộng đồng doanh nghiệp và nhu cầu thiết yếu của nhân dân, đặc biệt là cho các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị COVID-19 và các khu cách ly tập trung, công ty còn thực hiện miễn, giảm tiền điện kịp thời cho các nhóm đối tượng theo Nghị quyết của Chính phủ.

Báo cáo đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh quý III/2021 của PC Đồng Nai, cho thấy: Do dịch bệnh, một số hoạt động bị gián đoạn gây ảnh hưởng đến vận hành cung cấp điện của công ty trong và sau thời gian giãn cách xã hội. Khoảng 2.800 yêu cầu dịch vụ cấp điện mới, dịch vụ liên quan hợp đồng mua bán điện của khách hàng chưa được giải quyết, các công trình đầu tư xây dựng và sửa chữa lớn, thay thế vật tư thiết bị không thực hiện theo kế hoạch, bị chậm tiến độ.

Việc các doanh nghiệp ngưng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất khiến sản lượng điện thương phẩm các tháng 7, 8, 9 giảm bình quân trên 15% so với cùng kỳ năm 2020. Tình trạng khách chậm thanh toán tiền điện. Thực hiện chính sách miễn, giảm tiền điện ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và doanh thu của Công ty. Việc tổ chức trực tập trung cho gần 700 lao động làm gia tăng chi phí.

Về kết quả thực hiện nhiệm vụ 9 tháng so với kế hoạch năm của Công ty: Sản lượng điện thương phẩm đạt 10 tỷ 509 triệu kWh tăng 3,82% so với lũy kế cùng kỳ và đạt 73,11% kế hoạch; số lượng công trình sửa chữa và nâng cấp thực hiện là 36/51 công trình; Tổng số tiền đã hỗ trợ giảm cho các đối tượng khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 các tháng 6, 7, 8, 9 là 120,2 tỷ đồng.

Tập trung nguồn lực cho giai đoạn phục hồi kinh tế

PC Đồng Nai nhận định, dịch bệnh có thể khiến một số hoạt động, kế hoạch của Công ty bị gián đoạn, nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn cung ứng điện giai đoạn sau giãn cách.

Để nâng cao chất lượng phục vụ và giảm tác động của dịch bệnh đến hoạt động cung ứng điện, Công ty tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường chuyển đổi số trong các lĩnh vực quản trị, kinh doanh điện năng, quản lý vận hành hệ thống điện; mở rộng tương tác với khách hàng qua mạng xã hội, website và app chăm sóc khách hàng.

Đẩy mạnh thanh toán tiền điện qua ngân hàng, tổ chức trung gian; triển khai đăng ký mua bán điện và các yêu cầu về dịch vụ điện qua mạng, ghi chỉ số công tơ qua công nghệ đo xa; xây dựng các giải pháp tiết giảm chi phí, cân đối tài chính năm 2021 và những năm tiếp theo. Từ nay đến hết tháng 10/2021, bảo đảm 100% cán bộ, công nhân viên được tiêm đủ 2 mũi vaccine phòng COVID-19.

Thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp đã và sắp phục hồi sản xuất nên nhu cầu điện sẽ gia tăng. Do đó, ngay khi dịch bệnh được kiểm soát, Công ty nhanh chóng khởi công, thi công trở lại các công trình đầu tư xây dựng và sửa chữa lớn lưới điện; thực hiện thay thế vật tư, thiết bị theo kế hoạch để bảo đảm cung ứng điện cho công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ giai đoạn khôi phục; thực hiện các giải pháp để hoàn thành các chỉ tiêu quan trọng trong công tác kinh doanh dịch vụ khách hàng như: Điện tử hóa toàn bộ quá trình cung cấp dịch vụ điện với tỉ lệ giao dịch điện tử đạt trên 95%; tỉ lệ dịch vụ cung cấp trực tuyến cấp độ 4 đạt trên 80%.

Trước mắt là cao điểm mùa mưa bão và dịch bệnh còn phức tạp, Công ty hiệu chỉnh phương án cung cấp điện phù hợp nhiệm vụ kép. Trong đó xây dựng phương án bảo đảm điện các cho các bệnh viện dã chiến, khu cách ly tập trung, khu vực phong tỏa. Kiểm tra các vị trí xung yếu trên lưới, dưới nền và lên kế hoạch gia cố, khắc phục.

Chuẩn bị sẵn sàng nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị y tế cho lực lượng trực vận hành xử lý sự cố. Thực hiện tốt “4 tại chỗ + 5K + Vaccine” và “ba sẵn sàng” (chủ động phòng tránh, đối phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và có hiệu quả). Phối hợp với Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các địa phương vận động, yêu cầu tháo dỡ các công trình tạm, chặt tỉa cây xanh ảnh hưởng an toàn lưới điện.

Cùng với các giải pháp, kế hoạch đã được triển khai, đơn vị sẽ nắm bắt, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, bộ, ngành, EVN và UBND tỉnh về công tác phòng, chống dịch COVID-19 để điều chỉnh phù hợp tình hình mới; bảo đảm cung ứng, vận hành hệ thống điện an toàn, ổn định, liên tục với chất lượng tốt. Triển khai đồng bộ kế hoạch để đạt mục tiêu cơ bản hoàn thành quá trình chuyển đổi số vào cuối năm 2022.

(Theo PC Đồng Nai)

Tiêu thụ điện toàn quốc và miền Nam tiếp tục giảm thấp trong 2 tuần đầu tháng 9 năm 2021

Trong 2 tuần đầu tháng 9/2021, nhiều tỉnh thành phố tiếp tục thực hiện giãn cách xã hội để đảm bảo yêu cầu phòng chống dịch COVID-19 với những diễn biến phức tạp. Theo số liệu từ Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia, tiêu thụ điện toàn quốc và miền Nam tiếp tục giảm thấp trong 2 tuần đầu của tháng 9/2021.

Trên quy mô toàn quốc: tính trung bình ngày trong 2 tuần đầu tháng 9 thì mức công suất đỉnh của toàn quốc là hơn 29700 MW, sản lượng toàn hệ thống điện quốc gia là 624,3 triệu kWh/ngày. Như vậy, căn cứ với số liệu thống kê thì mức tiêu thụ điện toàn quốc trong 2 tuần đầu tháng 9 vừa qua đã thấp hơn 24% so với trước khi bắt đầu thực hiện giãn cách xã hội diện rộng từ giữa tháng 7; đồng thời cũng thấp hơn 15% so với cùng kỳ năm 2020.

Đối với riêng khu vực miền Nam: trung bình ngày trong 2 tuần đầu tháng 9 thì mức công suất đỉnh của toàn miền Nam là gần 12200 MW, sản lượng toàn hệ thống điện miền Nam là 243 triệu kWh/ngày. Căn cứ với số liệu thống kê thì mức tiêu thụ điện toàn miền Nam trong 2 tuần đầu tháng 9 vừa qua đã thấp hơn tới 29% so với trước khi bắt đầu thực hiện giãn cách xã hội từ giữa tháng 7; đồng thời cũng thấp hơn 23% so với cùng kỳ năm 2020.

Trong 2 tuần đầu tháng 9 thì mức công suất đỉnh của toàn quốc là hơn 29700 MW

Để đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia khi tiêu thụ điện xuống thấp do ảnh hưởng dịch COVID-19, nhiều loại hình nguồn điện bắt buộc phải giảm phát để đảm bảo sự ổn định của hệ thống điện. Việc chỉ huy điều độ cần phải đảm bảo phù hợp cơ cấu nguồn điện, công suất truyền tải giữa các vùng/miền, đảm bảo mức dự phòng quay và dự phòng khởi động nhanh cần thiết,… Các mệnh lệnh điều độ huy động nguồn điện trong hệ thống luôn thực hiện trên nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, thực hiện đồng đều và không phân biệt giữa các loại hình nguồn điện.

Sản lượng toàn hệ thống điện quốc gia là 624,3 triệu kWh/ngày

EVN tiếp tục đề nghị Chủ đầu tư các đơn vị phát điện duy trì việc phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) và các cấp Điều độ trong việc thực hiện nghiêm các mệnh lệnh điều độ để đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia, nhất là khi mức độ tiêu thụ điện giảm thấp do tác động của dịch bệnh COVID-19.

Các đơn vị phát điện có đấu nối và phát điện vào hệ thống điện quốc gia có trách nhiệm tuân thủ nghiêm phương thức vận hành, mệnh lệnh điều độ của cấp Điều độ có quyền điều khiển và kiểm tra theo quy định tại Thông tư số 40/2014/TT-BCT quy định quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia, Thông tư số 31/2019/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số điều của quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi vi phạm.

(Theo www.evn.com.vn)

Sẽ bỏ cơ chế giá FIT ưu đãi trong 20 năm với điện mặt trời áp mái

Lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, tới đây, chính sách mới cho điện mặt trời áp mái sẽ thay đổi, trong đó sẽ không còn cơ chế giá FIT (giá ưu đãi cố định).

Không còn cơ chế giá FIT cho điện mặt trời áp mái

Đó là phát biểu của ông Phạm Nguyên Hùng – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) – tại toạ đàm “Điện mặt trời mái nhà khu công nghiệp: Tháo gỡ những bất cập trong triển khai lắp đặt” diễn ra chiều ngày (30.8).

Trong vài năm qua, rất nhiều doanh nghiệp đã sử dụng điện mặt trời mái nhà trong hoạt động kinh doanh sản xuất, nhằm giảm chi phí sử dụng điện, cũng như góp phần tạo lợi thế về xuất khẩu và bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, doanh nghiệp có nhu cầu được lắp đặt, sử dụng điện mặt trời mái nhà đang gặp nhiều vướng mắc khi triển khai mô hình này, đặc biệt là nhà đầu tư trong các khu công nghiệp.

Ông Phạm Nguyên Hùng – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo – cho biết, việc đầu tư điện áp mái nếu đấu nối vào lưới điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì phải có thoả thuận.

Về các chính sách thúc đẩy phát triển điện mặt trời áp mái trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ nghiên cứu và tận dụng tối đa hạ tầng lắp đặt điện mặt trời áp mái và phù hợp với nhu cầu sử dụng tại chỗ.

Phần chênh lệch đó có thể bán cho lưới điện thì phần giá điện, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục nghiên cứu làm sao có cơ chế để tận dụng tốt, hài hoà với việc mua điện của EVN hoặc đơn vị khác. Tránh tình trạng lợi dụng chính sách, làm rõ và khích lệ cho các nhà đầu tư khai thác tốt trên hạ tầng có sẵn.

Toạ đàm “Điện mặt trời mái nhà khu công nghiệp: Tháo gỡ những bất cập trong triển khai lắp đặt” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp và GreenID tổ chức. Ảnh: VCCI

Theo ông Hùng, Bộ Công Thương cũng đang soạn thảo dự thảo quyết định cơ chế phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời áp mái.

Theo ông Hùng, trong thời gian tới khi xây dựng dự thảo sẽ không còn giá FIT ưu đãi trong 20 năm như trước đây. Thay vào đó, dự thảo đưa ra tỉ lệ tự dùng tại chỗ của các dự án 70-90%, nhằm giảm áp lực đầu tư lên lưới điện, truyền tải và phân phối.

Ngoài tỉ lệ tự dùng, phần điện còn lại (10-30%), doanh nghiệp sẽ bán lại cho EVN. Giá bán điện sẽ theo khung giá phát điện mặt trời hàng năm do Bộ Công Thương ban hành, nhằm đảm bảo sát thị trường.

“Giá bán sẽ không cố định và nếu có sẽ cho bán điện dư với giá bán theo khung giá khác. Chúng tôi đang nghiên cứu khung giá này và Bộ Công Thương sẽ ban hành khung giá hàng năm. Chúng tôi sẽ không đi theo cơ chế bù trừ trong năm” – ông Hùng khẳng định.

Bà Nguỵ Như Khanh – Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh – cho rằng, không thể kỳ vọng kéo dài mãi giá FIT, nhưng chính sách mới cần hướng tới việc thúc đẩy thị trường. Nếu chọn đây là loại hình năng lượng cần phát triển, chính sách đưa ra cần nhất quán, lâu dài và tránh liên tục thay đổi, để tạo niềm tin, thu hút nguồn lực của cho nhà đầu tư.

Chưa có chính sách mua điện với các dự án điện mặt trời áp mái sử dụng cho các khu công nghiệp

Việc cấp phép đấu nối với dự án điện mặt trời mái nhà như thế nào? Ông Nguyễn Quốc Dũng – Trưởng Ban Kinh doanh EVN – cho hay, Chính phủ chưa có chính sách mua điện với các dự án điện mặt trời áp mái sử dụng cho các khu công nghiệp nên EVN chưa biết trả tiền như thế nào

Do đó, đối với các khu công nghiệp đấu nối vào lưới thì sẽ có trường hợp chúng ta phát lên lưới. Với thời điểm công suất sử dụng thấp như hiện nay thì việc phát lên lưới sẽ gây nguy hiểm cho an ninh lưới điện. Còn nhà dân phát lên rất nhỏ nên mức độ ảnh hưởng không cao. Do đó, EVN vẫn đang chờ hướng dẫn.

“Nhu cầu năng lượng tăng rất cao, sức ép về năng lượng và an ninh năng lượng rất lớn. Việc phát triển năng lượng sạch năng lượng tái tạo là vô cùng quan trọng, giải quyết được nguồn năng lượng hiện nay, nâng cao sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

EVN luôn công khai minh bạch với các nhà đầu tư. Các thủ tục đều được hướng dẫn chi tiết đầy đủ và giải quyết nhanh chóng liên quan tới thoả thuận đấu nối. Tập đoàn sẵn sàng hỗ trợ những đấu nối cho các nhà đầu tư” – ông Dũng nói.

(Theo laodong.vn)

Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép

Đại diện EVN vừa cho biết trong tháng 5-2021, đơn vị đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép, vừa bảo đảm phòng, chống dịch Covid-19, vừa bảo đảm cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và sinh hoạt người dân, đặc biệt trong dịp bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống tháng 5-2021 đạt 23,98 tỉ KWh, đạt 104% kế hoạch. Lũy kế 5 tháng đạt 104,66 tỉ KWh, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tỉ lệ huy động một số nguồn chính như sau: Thủy điện đạt 24,01 tỉ KWh, chiếm 22,9% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống; Nhiệt điện than đạt 54,13 tỉ KWh (chiếm 51,7%); Tua bin khí đạt 13,28 tỉ KWh (chiếm 12,7%).

Huy động điện mặt trời tăng gần 3 lần

Đáng chú ý, năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đạt 12,35 tỉ KWh, tăng 159,5% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 11,8% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống. Riêng điện mặt trời đạt 11,48 tỉ KWh, tăng gần 3 lần so với cùng kỳ. Trong khi đó, nhiệt điện dầu huy động không đáng kể, đạt 2 triệu KWh; Điện nhập khẩu đạt 556 triệu KWh, giảm 67% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 0,5% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống.

Đại diện EVN cho biết thêm, sản lượng điện thương phẩm toàn EVN tháng 5-2021 ước đạt 19,67 tỉ KWh, tăng 15,4% so với cùng kỳ. Lũy kế 5 tháng đạt 90,51 tỉ KWh, tăng 8,51% so với cùng kỳ năm 2020. Đặc biệt, vào cuối tháng 5-2021, các tỉnh miền Bắc, miền Trung bước vào giai đoạn nắng nóng khắc nghiệt khi nhiệt độ nhiều nơi cao hơn 40 độ C, khiến lượng điện tiêu thụ tăng đột biến. Sản lượng tiêu thụ toàn quốc ngày 31-5 là 850,3 triệu KWh với công suất đỉnh là 41.549 MW. Ngày 1-6 tiếp tục lập kỷ lục mới với sản lượng điện tiêu thụ toàn quốc là 880,3 triệu KWh, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng hơn 15% so với trung bình tuần trước đợt nóng.

EVN đã bảo đảm vận hành hệ thống điện trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp

Về đầu tư xây dựng, lũy kế 5 tháng năm 2021 đã khởi công 40 công trình; hoàn thành đóng điện 49 công trình lưới điện 110-500 KV, trong đó đã đóng điện các dự án lưới điện quan trọng gồm: đường dây 500KV Mỹ Tho – Đức Hòa, đường dây 220KV Phả Lại rẽ Hải Dương, đóng điện máy 2 trạm biến áp 220KV Thanh Nghị, đóng điện cải tạo đường dây 110KV Hóc Môn – Bà Quẹo (đoạn Bình Tân – Bà Quẹo) và bàn giao 100% mặt bằng đoạn đường dây 500KV Dốc Sỏi – Pleiku 2. Về công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng, trong 5 tháng đầu năm 2021, tỉ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 69,85%; tỉ lệ tiền điện được thanh toán không dùng tiền mặt toàn EVN đạt 90,95%.

Khuyến cáo khách hàng sử dụng điện tiết kiệm

Theo EVN, tháng 6-2021, sản lượng tiêu thụ điện bình quân ngày toàn hệ thống dự kiến ở mức 799 triệu KWh/ngày, công suất phụ tải lớn nhất ước khoảng 41.556 MW. Nhận định xu thế thời tiết của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, những ngày đầu tháng do tác động của vùng áp thấp nóng phía Tây, khu vực Bắc Bộ và từ Thanh Hóa đến Phú Yên có nắng nóng và nắng nóng gay gắt; mức độ tiêu thụ điện toàn quốc và miền Bắc tăng cao.

EVN cho biết sẽ tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ kép, vừa bảo đảm phòng chống dịch Covid-19, vừa bảo đảm cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và sinh hoạt người dân, đặc biệt là yêu cầu bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định. Bên cạnh đó, khai thác các nguồn điện bảo đảm tối ưu đồng thời thủy điện – nhiệt điện; huy động thủy điện theo nước về, bảo đảm cấp nước hạ du cho các địa phương.

Về công tác đầu tư xây dựng, đại diện EVN khẳng định sẽ đôn đốc các đơn vị khắc phục khó khăn trong thi công do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, bảo đảm tiến độ các công trình nguồn điện và tiến độ đóng điện các công trình lưới điện quan trọng. Phấn đấu hoàn thành đóng điện đường dây 500KV Dốc Sỏi – Pleiku 2 (thuộc dự án đường dây 500KV mạch 3) và đường dây 500KV đấu nối Nhiệt điện Nghi Sơn 2…

Trong tháng 6-2021, EVN tiếp tục chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt công tác bảo đảm điện mùa khô, đồng thời chỉ đạo các Tổng công ty/công ty điện lực chuẩn bị đầy đủ nhân lực, phương tiện, tăng cường ứng trực 24/24 giờ để đối phó, xử lý kịp thời với các tình huống quá tải cục bộ, xử lý kịp thời sự cố, tiếp tục nỗ lực để bảo đảm cung cấp điện cho khách hàng.

Để giảm bớt những khó khăn trong cung ứng điện, giảm sức ép trong vận hành hệ thống điện, giảm thiểu nguy cơ quá tải cục bộ của lưới điện, EVN rất mong nhận được sự chia sẻ của quý khách hàng và khuyến cáo khách hàng sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả (đặc biệt vào các giờ cao điểm trưa từ 11 giờ 30 phút đến 15 giờ và cao điểm tối từ 20 giờ đến 23 giờ) với nhiều biện pháp như: tắt các thiết bị điện khi không có nhu cầu sử dụng, chỉnh nhiệt độ điều hòa ở 27 độ C trở lên, sử dụng kết hợp với quạt; không nên sử dụng đồng thời nhiều thiết bị điện công suất lớn để giảm thiểu nguy cơ xảy ra sự cố, cháy nổ về điện…

Ủng hộ 400 tỉ đồng cho Quỹ Vắc-xin phòng chống Covid-19

Với tinh thần khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ và phát huy vai trò, trách nhiệm tiên phong của doanh nghiệp Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội đối với cộng đồng trong bối cảnh đại dịch Covid-19, EVN đã ủng hộ 400 tỉ đồng cho Quỹ Vắc-xin phòng Covid-19. Tổng số tiền mà EVN và các đơn vị thành viên đã đóng góp, ủng hộ cho các tỉnh, thành phố đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch cũng như hỗ trợ các hoạt động phòng chống dịch của ngành y tế đối với riêng đợt dịch lần thứ 4 là gần 408 tỉ đồng.

(Theo: nld.cpm.vn)

Thực hiện giảm giá điện, giảm tiền điện hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19.

Thực hiện giảm giá điện, giảm tiền điện hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19
Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2020 và công văn số 2698/BCT-ĐTĐL ngày 16/4/2020 của Bộ Công Thương về việc hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19; ngay trong ngày 16/4/2020, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chính thức triển khai thực hiện giá điện cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Thông tin về phương án giảm giá điện, giảm tiền điện cụ thể như sau:

1. Về việc giảm giá điện:

– Giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất và kinh doanh: Giảm 10% giá bán lẻ điện quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về điều chỉnh mức giá bán lẻ bình quân và qui định giá bán điện (Quyết định số 648/QĐ-BCT) ở các khung giá giờ cao điểm, giờ bình thường và giờ thấp điểm.

– Giá bán lẻ cho các khách hàng sử dụng điện sinh hoạt: Giảm 10% giá bán lẻ điện sinh hoạt từ bậc 1 đến bậc 4 quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

– Khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch (theo qui định tại Luật Du lịch 2017 và các văn bản pháp luật có liên quan): Giảm giá điện từ mức giá bán lẻ điện áp dụng cho kinh doanh xuống bằng mức giá bán lẻ điện áp dụng cho các ngành sản xuất sau khi giảm giá.

– Đối với giá bán buôn điện nông thôn; giá bán buôn điện khu tập thể, cụm dân cư; giá bán buôn điện cho tổ hợp thương mại-dịch vụ-sinh hoạt: Giảm 10% giá bán buôn điện đối với bậc 1 đến bậc 4 của giá sinh hoạt; giảm 10% bán buôn điện cho mục đích khác tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

– Đối với giá bán buôn điện cho các khu công nghiệp, giá bán buôn điện cho chợ: Giảm 10% giá bán buôn điện so với biểu giá bán buôn điện tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

2. Về việc giảm tiền điện:

Giảm tiền điện (giá trị trước thuế) trực tiếp cho các cơ sở phục vụ phòng, chống dịch Covid-19 mua điện từ các đơn vị thuộc EVN, cụ thể như sau:

– Giảm 100% tiền điện cho các cơ sở (không phải là khách sạn) được dùng để cách ly, khám bệnh tập trung bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

– Giảm 20% tiền điện cho các cơ sở y tế được dùng để khám, xét nghiệm, điều trị bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

– Giảm 20% tiền điện cho các khách sạn được dùng để cách ly bệnh nhân nghi nhiễm, đã nhiễm Covid-19.

Danh sách các cơ sở phục vụ phòng, chống dịch Covid-19 được giảm tiền điện do Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hàng tháng cung cấp cho các Đơn vị Điện lực triển khai thực hiện.

3. Thời gian áp dụng hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện:

Tổng số thời gian khách hàng được hỗ trợ giảm giá điện và giảm tiền điện là ba (03) tháng. Thời điểm giảm giá điện và giảm tiền điện cụ thể như sau:

– Đối với khách hàng sử dụng điện sinh hoạt, sản lượng điện sử dụng của khách hàng có chu kỳ bắt đầu trong các tháng 4, tháng 5 và tháng 6 năm 2020 (xác định theo kỳ ghi chỉ số hàng tháng của Đơn vị Điện lực) sẽ được thực hiện giảm giá tương ứng tại các kỳ hoá đơn tiền điện tháng 5, tháng 6 và tháng 7 năm 2020.

– Đối với các khách hàng sử dụng điện ngoài sinh hoạt (sản xuất, kinh doanh, hành chính sự nghiệp…): thực hiện từ kỳ hoá đơn gần nhất kể từ ngày 16/4/2020.

– Đối với các khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch: các Đơn vị Điện lực thuộc EVN sẽ thông báo qua các phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử (SMS, Email, Zalo, App Chăm sóc khách hàng (CSKH), website CSKH…) cho tất cả khách hàng hiện đang áp dụng giá kinh doanh về chính sách chuyển sang giá sản xuất cho các cơ sở lưu trú du lịch và đề nghị các quý khách hàng đủ điều kiện cung cấp giấy tờ xác định “cơ sở lưu trú du lịch” theo quy định của Luật Du lịch năm 2017 là 01 trong các giấy tờ sau: (i) Văn bản của Sở Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch về kết quả kiểm tra đến cơ sở lưu trú du lịch theo quy định tại Điều 29, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP (ii) Quyết định hạng cơ sở lưu trú du lịch được các cơ quan có thẩm quyền cấp.

Các đơn vị của EVN thực hiện tổ chức tiếp nhận yêu cầu trên qua các kênh giao tiếp: (i) Cổng Dịch vụ công Quốc gia; (ii) Các kênh trên Internet (Web CSKH/App CSKH/Email/Zalo…); (iii) Tổng đài CSKH; (iv) Phòng Giao dịch khách hàng… để thực hiện các thủ tục chuyển đổi giá cho khách hàng với thời gian thực hiện trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận đù hồ sơ. Với các khách hàng đủ điều kiện, EVN cam kết đảm bảo đầy đủ quyền lợi được hỗ trợ tiền điện các kỳ hóa đơn trong vòng 03 tháng (kể từ kỳ hoá đơn gần nhất tính từ ngày 16/04/2020) theo đúng chỉ đạo của Bộ Công Thương.

4. Sau thời hạn giảm giá điện, giảm tiền điện:

Áp dụng giá bán điện theo quy định tại Quyết định số 648/QĐ-BCT.

Để đảm bảo tính công khai minh bạch, các Đơn vị Điện lực trực thuộc niêm yết công khai Công văn số 2698/BCT-ĐTĐL, Thông tư số 16/2014/TT-BCT, Thông tư số 25/2018/TT-BCT, các văn bản hướng dẫn về giá bán điện của Bộ Công Thương và của Tập đoàn tại tất cả các địa điểm giao dịch với khách hàng, website Chăm sóc khách hàng, website đơn vị theo quy định của Luật Điện lực.

EVN đang khẩn trương triển khai nâng cấp công cụ tính toán hóa đơn trực tuyến tại chuyên mục “EVN & Khách hàng” trên website của EVN (www.evn.com.vn), trong đó có chức năng phục vụ tính toán thay đổi giá điện với mức được hỗ trợ theo quy định. Số tiền điện được giảm, được hỗ trợ được Tập đoàn tính toán công khai, minh bạch, được thể hiện rõ ràng trên Bản thể hiện hoá đơn điện tử và Thông báo tiền điện gửi đến quý khách hàng.

Các khách hàng sử dụng điện có thể theo dõi số tiền được hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 được thể hiện như các mẫu thể hiện hóa đơn điện tử (như Phụ lục gửi kèm) trên website Chăm sóc khách hàng (CSKH) của các Tổng công ty Điện lực.

Như vậy, với việc thực hiện giảm giá điện, hỗ trợ tiền điện như trên, số tiền hỗ trợ dự kiến khoảng 11.000 tỷ đồng bao gồm 100% khách hàng sử dụng điện sinh hoạt tương ứng 26,6 triệu hộ gia đình đều được giảm 10% giá điện của 04 bậc thang đầu, trong đó chủ yếu là các hộ gia đình sử dụng điện sinh hoạt sử dụng dưới 300 kWh/tháng là 22,8 triệu hộ gia đình (chiếm tỷ lệ 85,7%) sẽ được giảm 10% tiền điện. Ngoài ra còn có hơn 2 triệu khách hàng sản xuất, kinh doanh cũng được giảm 10% giá bán lẻ điện. Các khách hàng là cơ sở lưu trú du lịch đáp ứng điều kiện của Luật Du lịch năm 2017 còn được chuyển đổi từ giá kinh doanh sang giá sản xuất. Bên cạnh đó, các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị COVID-19 và các khu cách ly tập trung cũng được miễn, giảm tiền điện trong thời gian 3 tháng.

Trong bối cảnh tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 hiện nay, EVN và các đơn vị tiếp tục cố gắng, nỗ lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ kép là vừa đảm bảo cung cấp điện, vừa chung sức cùng nhân dân cả nước phòng chống dịch COVID-19. Tập đoàn Điện lực Việt Nam trân trọng cám ơn quý khách hàng đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện để Tập đoàn hoàn thành nhiệm vụ.

(Theo: evn.com.vn)

Công ty TNHH Điện lực Đồng Nai: Lợi ích kép từ chuyển đổi số

Trong những năm qua, Công ty Điện lực Đồng Nai luôn chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học công nghệ tiên tiến trong công tác dịch vụ khách hàng, phát triển lưới điện và quản lý vận hành hệ thống điện, góp phần nâng cao chất lượng điện năng và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng cũng nhưng đơn vị.

Chuyển đổi số đồng bộ

Công tác chuyển đổi số tại Công ty Điện lực Đồng Nai được thực hiện đồng bộ trên 5 lĩnh vực. Thứ nhất, trong lĩnh vực sản xuất, các hoạt động quản lý kỹ thuật, quản lý vận hành lưới điện đã được thực hiện trên các hệ thống phần mềm như Hệ thống phần mềm quản lý kỹ thuật (PMIS); Hệ thống dự báo phụ tải và tính toán hệ thống điện; hệ thống quản lý độ tin cậy cung cấp điện (OMS); phần mềm phân tích mô phỏng lưới điện phân phối (PSS/Adept),… Hệ thống điều khiển, giám sát và thu thập dữ liệu SCADA/DMS đã khai thác có hiệu quả phân hệ DMS với các ứng dụng tính toán lưới điện đã được xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu liên tục cho lưới điện; các ứng dụng khác như dự báo phụ tải, mô phỏng đào tạo điều độ viên (OTS), chức năng tự động xác định sự cố, cô lập và phục hồi cung cấp điện (FLISR) đã được đưa vào vận hành chính thức.

Công ty đã thực hiện điều khiển xa cho 27 TBA 110kV đạt 100% số TBA 110kV hiện hữu; lắp đặt và đưa vào khai thác hệ thống camera giám sát tại 11/27 TBA 110kV; kết nối tín hiệu và điều khiển từ xa cho các thiết bị điều khiển trên lưới trung thế 22kV (Recloser/LBS); tỷ lệ công tơ điện tử đạt 52,8% tổng số công tơ đang vận hành trên lưới.

Thứ hai, đối với lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ khách hàng, Công ty đang vận hành có hiệu quả Hệ thống phần mềm quản lý khách hàng sử dụng điện và các chương trình ứng dụng hiện trường như: Khảo sát cấp điện hạ áp, ghi điện và thông báo tiền điện, lắp đặt công tơ, kiểm tra công tơ, các hệ thống phần mềm thu thập và quản lý dữ liệu đo đếm, số hóa hợp đồng mua bán điện, cổng thanh toán điện tử…. Qua đó, giúp nâng tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 99%; thời gian cấp điện mới cho khách hàng tiếp tục được rút ngắn, trong đó thời gian bình quân cấp điện lưới trung áp là 4 ngày – rút ngắn 0,5 ngày so với qui định của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Các dịch vụ về điện tiếp tục phát triển và đa dạng hóa hình thức cung cấp, trong đó tỷ lệ khách hàng giao dịch 12 dịch vụ cung cấp điện qua Trung tâm Chăm sóc khách hàng và Cổng dịch vụ công Quốc gia đạt 87,94% trên tổng số giao dịch; tỷ lệ khách hàng sử dụng dịch vụ cung cấp điện trực tuyến cấp độ 4 đạt 91,98% trên tổng số giao dịch; điện tử hóa toàn bộ quá trình cung cấp dịch vụ điện, tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 62%/tổng số giao dịch.

Thứ ba, trong lĩnh vực quản trị nội bộ, Công ty đã triển khai hệ thống văn phòng điện tử (E-Office) kết nối với Tổng công ty Điện lực miền Nam (Tổng công ty) và các đơn vị trực thuộc, tất cả các văn bản đi và đến đã được số hóa và được quản lý thống nhất trên hệ thống có tích hợp chữ ký số; hệ thống Hội nghị truyền hình kết nối với hệ thống của Tập đoàn và hệ thống của Tổng công ty để triển khai các cuộc họp truyền hình 04 cấp từ Tập đoàn đến các điện lực, phòng, ban, đội trực thuộc.

Các hệ thống quản lý nguồn nhân lực (HRMS) và hệ thống Quản lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP) cũng được khai thác có hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho Công ty trong công tác quản trị, quản lý điều hành.

Thứ tư, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Công ty triển khai phần mềm quản lý đầu tư xây dựng (IMIS) để quản lý thông tin toàn bộ dự án đầu tư xây dựng và quá trình thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc đầu tư. Công tác đấu thầu qua mạng đã và đang được áp dụng tại Công ty và các đơn vị trực thuộc thông qua Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia với tỷ lệ các gói thầu đấu thầu qua mạng đạt 100% số các gói thầu thực hiện theo hình thức chào hàng cạnh tranh và đấu thầu rộng rãi.

Thứ năm, đối với lĩnh vực viễn thông dùng riêng và công nghệ thông tin: Công ty đã triển khai mạng cáp quang nội hạt kết nối hệ thống mạng máy tính tại văn phòng Công ty đến 100% cơ sở ngành điện như văn phòng các điện lực, tổ, đội với tổng chiều dài các tuyến cáp quang đang vận hành trên 1.206 km. Băng thông truyền dẫn giữa các nút mạng đạt tốc độ 1Gbps đáp ứng được nhu cầu quản trị và điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty.

Bên cạnh việc triển khai ứng dụng các hệ thống phần mềm quản lý dùng chung của Tập đoàn và của Tổng công ty, Công ty còn tự xây dựng các chương trình phần mềm dùng riêng đáp ứng các nhu cầu quản lý trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Công ty cũng từng bước thực hiện tự động hóa lưới điện và xây dựng lưới điện thông minh với việc thay thế các công tơ đo đếm điện năng cơ khí bằng các công tơ điện tử có chức năng truyền dữ liệu đo đếm từ xa, vận hành các thiết bị đóng cắt điện có chức năng điều khiển từ xa, triển khai hệ thống trạm biến áp 110kV không người trực và vận hành hệ thống SCADA.

Với những chương trình đã triển khai, trong năm 2019 Công ty đã vinh dự được Bộ Thông tin và Truyền thông trao tặng giải thưởng Doanh nghiệp chuyển đổi số cho giải pháp Ứng dụng số hóa hợp đồng mua bán điện.

Hiệu quả thiết thực

Chuyển đổi số đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong công tác dịch vụ khách hàng, chuyển đổi số đã giúp cho khách hàng có thể yêu cầu cung cấp thông tin, các dịch vụ điện trực tuyến thông qua các trang web của Tổng công ty và của Công ty, hoặc thông qua các ứng dụng trên thiết bị di động một cách nhanh chóng, thuận tiện và khách hàng giám sát được tiến trình giải quyết các yêu cầu dịch vụ của mình.

Đặc biệt, chuyển đổi số giúp giảm chi phí vận hành doanh nghiệp khi Công ty chuyển đổi hình thức hóa đơn tiền điện dạng giấy sang hình thức điện tử đã giúp tiết kiệm chi phí in ấn và phát hành gần 1 triệu hóa đơn mỗi tháng, hoặc giảm nhân công ghi điện khi chuyển đổi các công tơ cơ khí bằng công tơ điện tử có chức năng truyền dữ liệu từ xa… Nhờ đó, nhân viên không cần phải thực hiện các nghiệp vụ mang tính thủ công như tổng hợp số liệu, lập báo cáo từ đó nâng cao năng xuất lao động. Ngoài ra, các dữ liệu này luôn có sẵn trên các hệ thống quản lý, giúp lãnh đạo Công ty ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt và kịp thời.

Về lâu dài, nhằm thực hiện chủ trương của EVN và kế hoạch chuyển đổi số của Tổng công ty với mục tiêu đề ra đến hết năm 2022, EVN cơ bản chuyển đổi thành doanh nghiệp số, Công ty xác định chuyển đổi số là trách nhiệm của toàn thể người lao động. Theo đó, Công ty sẽ chú trọng thực hiện các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cũng như đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển doanh nghiệp số cho lãnh đạo các cấp và toàn thể người lao động trong đơn vị.

Đồng thời, Công ty triển khai ứng dụng các hệ thống phần mềm quản lý dùng chung của Tập đoàn và của Tổng công ty theo đúng kế hoạch tiến độ; cập nhật kịp thời, đầy đủ và chính xác dữ liệu trên các hệ thống này; tiến hành rà soát các quy trình hiện tại còn đang phải làm thủ công, bằng giấy và xem xét khả năng ứng dụng công nghệ mới để hiệu chỉnh, đơn giản hóa và số hóa các quy trình này.

Mặt khác, Công ty tiếp tục xây dựng các phần mềm ứng dụng dùng riêng đáp ứng yêu cầu quản lý đặc thù của Công ty; ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để triển khai nhanh lưới điện thông minh, tự động hóa lưới điện; cung cấp các công cụ, phương tiện để hỗ trợ người lao động trong việc sàng lọc, tìm kiếm và chia sẻ thông tin, hỗ trợ tốt nhất cho công việc và tiết kiệm thời gian, sức lao động.

(Theo Công Thương)